- New Vietnamese Bible 2014 Thẩm Phán THẨM PHÁN Thẩm Phán Thẩm THẨM PHÁN Giới Thiệu Sách Thẩm Phán ghi lại những câu chuyện về người Y-sơ-ra-ên trong thời kỳ từ khi chiếm vùng Ca-na-an cho đến khi thành lập nền quân chủ. Đa số những người lãnh đạo hay anh hùng được ghi chép lại trong thời này là những lãnh đạo quân sự hơn là thẩm phán theo nghĩa pháp lý. Một vài thẩm phán quan trọng trong thời kỳ này là Ghi-đê-ôn, Sam-sôn. Bài học lớn nhất trong sách Thẩm Phán là sự sống còn của dân tộc Do Thái tùy thuộc vào sự trung tín với Chúa; bất trung với Chúa luôn luôn dẫn đến tai họa. Dù vậy, ngay trong khi bất trung và đang bị tai họa nhưng nếu dân chúng ăn năn, quay trở lại với Chúa của mình thì Ngài luôn luôn sẵn sàng giải cứu họ. Bố Cục 1. Những biến cố cho đến khi Giô-suê qua đời 1:1–2:10 2. Các thẩm phán của người Y-sơ-ra-ên 2:11–16:31 3. Những biến cố khác 17:1–21:25 Chi Tộc Giu-đa Và Chi Tộc Si-mê-ôn Đánh Bại A-đô-ni Bê-xéc Sau khi Giô-suê qua đời, dân Y-sơ-ra-ên cầu hỏi CHÚA rằng: “Ai trong chúng con sẽ đi đánh dân Ca-na-an trước?” CHÚA phán: “Bộ tộc Giu-đa sẽ lên đánh trước. Ta sẽ phó xứ vào tay họ.” Người Giu-đa bèn nói với người Si-mê-ôn, là anh em của họ rằng: “Xin hãy lên đánh dân Ca-na-an giúp chúng tôi, trong phần đất đã chia cho chúng tôi; rồi sau đó chúng tôi sẽ đi với anh em đến phần đất đã chia cho anh em.” Người Si-mê-ôn liền đi lên với họ. Vậy người Giu-đa đi lên, và CHÚA phó dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít vào tay họ. Họ đánh hạ mười ngàn người tại Bê-xéc. Tại Bê-xéc họ đánh bại vua A-đô-ni Bê-xéc, dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít. A-đô-ni Bê-xéc chạy trốn, nhưng họ đuổi theo và bắt được vua. Họ chặt đứt các ngón cái của tay và chân vua. A-đô-ni Bê-xéc bèn nói: “Có bảy mươi vua bị chặt đứt các ngón cái của tay và chân, phải lượm thức ăn vụn dưới bàn ta. Những gì ta đã làm cho người khác, bây giờ Đức Chúa Trời báo trả lại trên ta.” Họ dẫn vua đến Giê-ru-sa-lem và vua qua đời tại đó. Chi Tộc Giu-đa Chinh Phục Giê-ru-sa-lem Và Hếp-rôn Người Giu-đa tiến đánh Giê-ru-sa-lem và chiếm lấy. Họ dùng gươm hủy diệt và phóng hỏa thành. Sau đó người Giu-đa tiến xuống tấn công dân Ca-na-an cư ngụ ở miền quê trên các cao nguyên, ở miền Nam, và ở vùng đồng bằng. Người Giu-đa cũng tiến đánh dân Ca-na-an ở miền Hếp-rôn1:10 Tên của Hếp-rôn trước kia là Ki-ri-át A-ra-ba và đánh hạ các thành Sê-sai, A-hi-man, và Tan-mai. Ốt-ni-ên Chinh Phục Đê-bia Từ đó họ tiến đánh dân thành Đê-bia1:11 Tên của Đê-bia trước kia là Ki-ri-át Sê-phe Bấy giờ Ca-lép tuyên bố: “Ai tấn công Ki-ri-át Sê-phe và chiếm được nó, thì ta sẽ gả con gái ta là Ạc-sa làm vợ người ấy.” Ốt-ni-ên, con trai của Kê-na, em trai của Ca-lép, đánh hạ được thành ấy; Ca-lép bèn gả Ạc-sa, con gái ông, làm vợ Ốt-ni-ên. Khi Ạc-sa về nhà chồng, nàng giục chồng hãy xin cha nàng một cánh đồng. Khi nàng xuống lừa, Ca-lép hỏi: “Con muốn gì đây?” Nàng thưa: “Con muốn xin cha cho con một món quà. Bây giờ cha đã gả con về miền nam khô cằn thì xin cha cũng hãy cho con các suối nước nữa.” Ca-lép bèn ban cho nàng các suối nước ở miền thượng lưu và các suối nước ở miền hạ lưu. Những Chiến Thắng Của Chi Tộc Giu-đa Và Chi Tộc Bên-gia-min Các con cháu của Kê-nít, nhạc phụ của Môi-se, từ thành Cây chà là cùng đi lên với người Giu-đa, họ đến định cư giữa những người sống trong vùng đồng hoang của Giu-đa, là vùng nằm về phía nam, gần A-rát. Người Giu-đa với người Si-mê-ôn, là anh em của họ, đi lên đánh bại dân Ca-na-an ngụ tại Xê-phát và hủy diệt nơi ấy. Vì thế họ gọi nơi ấy là Họt-ma. Người Giu-đa chiếm lấy Ga-xa và vùng phụ cận, Ách-ca-lôn và vùng phụ cận, Éc-rôn và vùng phụ cận. CHÚA ở cùng người Giu-đa và họ chiếm lấy các vùng cao nguyên; nhưng họ không thể đuổi dân Ca-na-an ở vùng đồng bằng đi được, vì chúng có thiết xa. Theo như lệnh của Môi-se đã truyền, người ta ban Hếp-rôn cho Ca-lép. Ca-lép bèn đuổi ba con trai của A-nác ra khỏi vùng ấy. Nhưng người Bên-gia-min không đuổi dân Giê-bu-sít ngụ tại Giê-ru-sa-lem đi, cho nên dân Giê-bu-sít vẫn sống tại Giê-ru-sa-lem giữa người Bên-gia-min cho đến ngày nay. Chi Tộc Ép-ra-im Và Chi Tộc Ma-na-se Chinh Phục Bê-tên Nhà Giô-sép cũng lên tiến đánh Bê-tên, và CHÚA ở với họ. Nhà Giô-sép sai các thám tử đến do thám Bê-tên1:23 Tên của thành này trước kia là Lu-xơ Các thám tử thấy một người trong thành đi ra, họ bắt lại hỏi: “Hãy chỉ cho chúng tôi lối vào trong thành, thì chúng tôi sẽ đối xử tử tế với anh.” Vậy người ấy chỉ cho họ lối vào trong thành. Họ bèn dùng gươm đánh diệt thành nhưng để cho người ấy và gia đình người ấy ra đi. Vậy người ấy đến trong xứ của dân Hê-tít và xây dựng một thành, rồi đặt tên là Lu-xơ. Ấy là tên của thành đó cho đến ngày nay. Những Dân Tộc Người Y-sơ-ra-ên Còn Chừa Lại Người Ma-na-se không đuổi đi dân ở Bết Sê-an và các làng xã xung quanh nó, dân ở Tha-a-nác và các làng xã xung quanh nó, dân ở Đô-rơ và các làng xã xung quanh nó, dân ở Ghíp-lê-am và các làng xã xung quanh nó, dân ở Mê-ghi-đô và các làng xã xung quanh nó; vì dân Ca-na-an đã quyết chí tiếp tục cư ngụ trong xứ. Khi người Y-sơ-ra-ên cường thịnh thì họ bắt dân Ca-na-an phục dịch họ, nhưng họ không đuổi chúng đi. Người Ép-ra-im cũng không đuổi dân Ca-na-an sống ở Ghê-xe đi; nhưng dân Ca-na-an sống giữa họ ở Ghê-xe. Người Sa-bu-luân cũng không đuổi dân ở Kít-rôn, hoặc dân ở Na-ha-lô đi, nhưng dân Ca-na-an vẫn sống giữa họ, và bị bắt phải phục dịch họ. Người A-se cũng không đuổi dân ở A-cô, dân ở Si-đôn, dân ở Ách-láp, dân ở Ạc-xíp, dân ở Hên-ba, dân ở A-phéc, hay dân ở Rê-hốp đi; nhưng người A-se lập nghiệp giữa dân Ca-na-an, là cư dân trong xứ; vì họ không đuổi chúng đi. Người Nép-ta-li cũng không đuổi dân ở Bết Sê-mết, hay dân ở Bết A-nát đi, nhưng họ lập nghiệp giữa dân Ca-na-an, là cư dân trong xứ; nhưng dân Bết Sê-mết và dân Bết A-nát bị bắt phải phục dịch họ. Dân A-mô-rít dồn người Đan lên núi, không cho họ xuống đồng bằng. Dân A-mô-rít quyết chí tiếp tục cư ngụ tại Hê-re, A-gia-lôn, và Sa-an-bim; nhưng tay của nhà Giô-sép đè nặng trên chúng, và chúng bị bắt phải phục dịch họ. Địa phận của dân A-mô-rít kéo dài từ đèo Bò-cạp đến Sê-la trở lên. Thiên Sứ Của CHÚA Hiện Đến Bấy giờ, thiên sứ của CHÚA đi từ Ghinh-ganh đến Bô-kim, phán rằng: “Ta đã đem các ngươi lên khỏi xứ Ai-cập, và Ta đã đem các ngươi vào xứ Ta đã hứa với tổ phụ các ngươi. Ta có phán: ‘Ta sẽ không bao giờ hủy bỏ giao ước Ta đã lập với các ngươi. Phần các ngươi, thì các ngươi không được lập giao ước với các cư dân trong xứ này; mà phải phá đổ các bàn thờ của chúng đi.’ Nhưng các ngươi không vâng theo mệnh lệnh Ta. Sao các ngươi lại làm như vậy? Nên bây giờ Ta phán, Ta sẽ không đuổi chúng đi khỏi mặt các ngươi nữa; nhưng chúng sẽ trở thành như gai góc bên cạnh các ngươi, và các thần tượng của chúng sẽ là cạm bẫy cho các ngươi.” Khi thiên sứ phán những lời này cho cả dân Y-sơ-ra-ên xong thì dân chúng cất tiếng lên khóc. Vì thế họ đặt tên chỗ đó là Bô-kim, rồi họ dâng tế lễ cho CHÚA tại đó. Giô-suê Qua Đời Sau khi Giô-suê cho dân chúng ra về, mọi người Y-sơ-ra-ên đều vào nhận sản nghiệp của mình và chiếm lấy xứ. Dân Y-sơ-ra-ên phụng thờ CHÚA trọn đời của Giô-suê, và trọn đời của các trưởng lão sống lâu hơn Giô-suê, ấy là những người đã chứng kiến tận mắt những việc lớn lao mà CHÚA đã làm cho Y-sơ-ra-ên. Giô-suê con của Nun, đầy tớ của CHÚA, qua đời lúc một trăm mười tuổi. Người ta chôn ông trong địa phận thuộc sản nghiệp của ông ở Thim-nát Hê-re, thuộc vùng cao nguyên Ép-ra-im, về phía bắc của núi Ga-ách. Sau đó, cả thế hệ ấy đều quy về cùng tổ phụ họ, một thế hệ khác lớn lên kế tiếp họ; thế hệ mới này chẳng biết CHÚA và cũng không biết những việc Ngài đã làm cho Y-sơ-ra-ên. Dân Y-sơ-ra-ên Bỏ CHÚA Khi ấy dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA và thờ lạy các thần Ba-anh. Họ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, là Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai-cập, mà theo các thần khác, tức là các thần của những dân tộc sống xung quanh họ; họ quỳ lạy trước các thần ấy và chọc giận CHÚA. Họ bỏ CHÚA mà thờ lạy Ba-anh và Át-tạc-tê. Vậy nên cơn giận của CHÚA bừng lên nghịch cùng Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ cho quân cướp để chúng cướp bóc họ; Ngài bán họ vào tay quân thù ở xung quanh, để họ không thể chống cự nổi những kẻ thù của họ. Mỗi khi họ xuất quân ra trận, tay CHÚA nghịch lại họ, khiến họ gặp chuyện rủi ro, y như CHÚA đã cảnh cáo và thề với họ trước kia. Họ sống trong cảnh thật vô cùng bi đát. Bấy giờ CHÚA dấy lên những vị thẩm phán, để giải cứu họ ra khỏi quyền lực của những kẻ cướp bóc họ. Dầu vậy, họ cũng không chịu nghe theo các vị thẩm phán; vì họ mê đắm các thần khác và quỳ lạy trước mặt các thần ấy. Họ vội từ bỏ con đường mà tổ phụ họ, là những người đã vâng theo mạng lệnh CHÚA, đã đi. Họ không noi theo gương của tổ phụ họ. Mỗi khi CHÚA dấy lên một vị thẩm phán để lãnh đạo họ, CHÚA ở cùng vị thẩm phán đó. Trọn đời của vị thẩm phán ấy Ngài giải thoát họ khỏi tay các kẻ thù; bởi vì CHÚA có động lòng thương xót họ khi nghe họ than khóc do bị quân thù bách hại và đàn áp. Nhưng mỗi khi một vị thẩm phán qua đời, họ liền quay trở về đường cũ. Họ càng trở nên tệ hơn những bậc tiền bối của họ. Họ tin theo các thần khác, thờ phượng các thần ấy, và quỳ lạy trước mặt chúng. Họ chẳng chịu từ bỏ sự thờ phượng sai lạc của họ và cũng chẳng chịu lìa bỏ những đường lối ương ngạnh của họ. Vậy nên cơn giận của CHÚA bừng lên nghịch lại Y-sơ-ra-ên, và Ngài phán: “Bởi vì dân này đã cố tình phạm giao ước mà Ta đã lập với tổ phụ chúng, và chúng không chịu vâng theo lời Ta, Ta sẽ không đuổi đi khỏi chúng những dân tộc còn sót lại khi Giô-suê qua đời nữa. Để thử xem dân Y-sơ-ra-ên có bước đi trong đường lối CHÚA như tổ phụ của chúng đã làm chăng.” Vậy CHÚA chừa lại các dân tộc đó, không đuổi chúng đi ngay, và cũng không phó chúng vào tay Giô-suê. Những Dân Tộc Còn Lại Trong Xứ Đây là các dân tộc mà CHÚA còn chừa lại để dùng họ thử luyện những người Y-sơ-ra-ên chưa từng có kinh nghiệm chiến trường ở Ca-na-an (Ngài chỉ muốn dùng chúng để dạy những thế hệ mới của Y-sơ-ra-ên về chiến trận, ấy là những kẻ chưa hề thấy những trận chiến ngày trước). Năm lãnh chúa của dân Phi-li-tin, các dân Ca-na-an, dân Si-đôn, và dân Hê-vít cư ngụ trên núi Li-ban, từ Ba-anh Hẹt-môn cho đến Đèo Ha-mát. Các dân tộc này được dùng để thử lòng dân Y-sơ-ra-ên, xem họ có vâng theo các điều răn mà CHÚA đã dùng Môi-se truyền dạy cho các tổ phụ họ chăng. Vì thế người Y-sơ-ra-ên sống giữa dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-rô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít. Họ cưới con gái chúng làm vợ, gả con gái họ cho con trai chúng, và họ thờ lạy các thần của chúng. Ốt-ni-ên Dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA, họ quên CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, mà thờ lạy Ba-anh và A-sê-ra. Vì vậy cơn giận của CHÚA bừng lên nghịch lại Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ vào tay Cút-san Ri-sa-tha-im, vua của A-ram Na-ha-ra-im. Dân Y-sơ-ra-ên phục vụ Cút-san Ri-sa-tha-im tám năm. Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên khóc than cùng CHÚA, CHÚA bèn dấy lên một người giải phóng, ấy là Ốt-ni-ên, con trai của Kê-na, em trai của Ca-lép. Thần của CHÚA ngự trên ông và ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên. Ông dấy binh khởi nghĩa, và CHÚA phó Cút-san Ri-sa-tha-im, vua của A-ram vào tay ông, tay ông thắng hơn Cút-san Ri-sa-tha-im. Nhờ thế xứ được hòa bình bốn mươi năm. Sau đó, Ốt-ni-ên con trai của Kê-na qua đời. Ê-hút Dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác trước mặt CHÚA, nên CHÚA khiến cho Éc-lôn, vua Mô-áp, mạnh hơn Y-sơ-ra-ên; bởi vì điều ác họ đã làm trước mặt CHÚA. Éc-lôn kết đồng minh với dân Am-môn và dân A-ma-léc rồi xuất quân đánh bại dân Y-sơ-ra-ên. Chúng chiếm lấy thành Cây Chà Là. Thế là dân Y-sơ-ra-ên phải phục vụ Éc-lôn, vua Mô-áp, mười tám năm. Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên khóc van cùng CHÚA, CHÚA dấy lên một người giải phóng, người ấy là Ê-hút, con trai của Ghê-ra, thuộc bộ tộc Bên-gia-min; Ê-hút là một người thuận tay trái. Dân Y-sơ-ra-ên phái ông đem cống vật đến Éc-lôn, vua Mô-áp. Ê-hút tự làm lấy một đoản gươm hai lưỡi, dài khoảng năm tấc. Ông buộc nó trong đùi phải, khuất dưới áo quần; rồi ông mang cống vật đến nộp cho Éc-lôn, vua Mô-áp. Vả, Éc-lôn là một người rất mập. Khi Ê-hút trình dâng các cống vật xong rồi, ông cho những người mang cống vật đi về trước. Còn ông, khi đến hầm đục đá gần Ghinh-ganh, ông quay trở lại và nói: “Tâu vua, tôi có một việc bí mật muốn tâu riêng với vua.” Vua truyền: “Im lặng!” Tất cả những kẻ hầu cận của vua đều lui ra. Đang khi vua ngồi một mình nơi lầu mát, Ê-hút đến gần vua và tâu rằng: “Tôi có một sứ điệp từ Đức Chúa Trời cho vua.” Vừa khi vua đứng dậy khỏi ngai, Ê-hút dùng tay trái rút đoản gươm dấu nơi đùi phải và đâm mạnh vào bụng Éc-lôn. Cán gươm lút theo với lưỡi, mỡ phủ lại quanh lưỡi gươm, và ruột lòi ra. Ông để nguyên đoản gươm trong bụng, mà không rút ra, vì nó thấu đến sau lưng. Ê-hút đóng tất cả cửa của lầu mát lại, khóa chặt hết các cửa, rồi lẻn đi. Sau khi Ê-hút đã đi rồi, các tôi tớ của vua trở lại, thấy các cửa lầu mát đều khóa chặt, họ nghĩ: “Chắc vua đang nghỉ ngơi trong lầu mát.” Vì thế họ đứng đợi bên ngoài, cho đến khi bối rối. Khi thấy chờ mãi mà vua vẫn chưa mở cửa, họ bèn lấy chìa khóa và mở cửa ra. Kìa vua của họ đã nằm chết dưới sàn. Đang khi họ bối rối trì trệ thì Ê-hút đã chạy thoát được, vượt qua các hầm đá, mà chạy về Sê-i-ra. Khi đến nơi, ông thổi kèn triệu tập dân chúng vùng cao nguyên Ép-ra-im. Người Y-sơ-ra-ên nhóm lại theo ông xuống núi, chính ông dẫn đầu họ. Ông nói: “Hãy theo tôi. Vì CHÚA đã phó kẻ thù các người là dân Mô-áp vào tay các người.” Vậy họ theo ông xuống chiếm những khúc cạn, nơi người Mô-áp thường lội qua sông Giô-đanh; họ cấm không cho một ai qua sông. Trong trận ấy họ đánh giết mười ngàn người Mô-áp, tất cả đều là những người lực lưỡng và dũng mãnh; không một ai thoát khỏi. Vậy dân Mô-áp chịu khuất phục dưới tay dân Y-sơ-ra-ên, và xứ được hòa bình tám mươi năm. Sam-ga Sau Ê-hút có Sam-ga, con trai của A-nát. Sam-ga dùng một cây đót bò đánh chết sáu trăm người Phi-li-tin. Vậy Sam-ga cũng là người giải phóng dân Y-sơ-ra-ên. Đê-bô-ra Và Ba-rác Sau khi Ê-hút qua đời, dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác trước mặt CHÚA. Nên CHÚA phó họ vào tay Gia-bin, vua của Ca-na-an, khi ấy đang trị vì tại Hát-so. Tổng tư lệnh quân đội của Gia-bin là Si-sê-ra; Si-sê-ra đặt bộ chỉ huy tại Ha-rô-sết Ha-gô-im. Vì Gia-bin có chín trăm thiết xa và đàn áp dân Y-sơ-ra-ên rất tàn bạo trong hai mươi năm, nên dân Y-sơ-ra-ên kêu van cùng CHÚA xin cứu giúp. Lúc ấy nữ tiên tri Đê-bô-ra, vợ của Láp-bi-đốt, làm thẩm phán trong Y-sơ-ra-ên. Bà ngồi làm việc dưới cây chà là Đê-bô-ra, ở giữa Ra-ma và Bê-tên, trên cao nguyên Ép-ra-im; dân Y-sơ-ra-ên đến với bà để bà xét xử. Bà sai người đến mời Ba-rác, con trai của A-bi-nô-am, ở Kê-đe, thuộc địa phận của bộ tộc Nép-ta-li, đến và nói với ông rằng: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên truyền cho ngươi, ‘Hãy đi, đem theo mười ngàn người từ bộ tộc Nép-ta-li và bộ tộc Sa-bu-luân mà chiếm lấy núi Tha-bô. Ta sẽ khiến Si-sê-ra, tổng tư lệnh quân đội của Gia-bin, với các thiết xa và quân đội của hắn, đến gặp ngươi ở Khe Ki-sôn. Ta sẽ phó hắn vào tay ngươi.’ ” Ba-rác đáp: “Nếu bà đi với tôi thì tôi sẽ đi, nhưng nếu bà không đi với tôi thì tôi sẽ không đi.” Bà nói: “Chắc chắn tôi sẽ đi với ông; nhưng công chiến thắng trong trận này sẽ không về tay ông; vì CHÚA sẽ phó Si-sê-ra vào tay một phụ nữ.” Vậy Đê-bô-ra đứng dậy đi với Ba-rác đến Kê-đe. Ba-rác triệu tập người Sa-bu-luân và người Nép-ta-li tại Kê-đe. Có mười ngàn người theo ông, và cũng có Đê-bô-ra đi với ông. Bấy giờ, Hê-be người Kê-nít, đã tách rời khỏi dân Kê-nít, tức là dòng dõi của Hô-báp, anh em vợ của Môi-se, mà ra ở riêng. Ông dựng lều trại của ông ở tận Cây Sồi Sa-na-nim, gần Kê-đe. Khi Si-sê-ra đã hay rằng Ba-rác, con trai của A-bi-nô-am, đã đến núi Tha-bô, Si-sê-ra liền truyền lệnh đem tất cả chiến xa, gồm chín trăm thiết xa, và tất cả quân đội dưới quyền mình, từ Ha-rô-sết Ha-gô-im kéo đến Khe Ki-sôn. Bấy giờ Đê-bô-ra nói với Ba-rác: “Hãy đứng lên! Vì đây là ngày CHÚA phó Si-sê-ra vào tay ông. Há chẳng phải chính CHÚA đi trước ông sao?” Vậy Ba-rác từ trên núi Tha-bô đi xuống, với mười ngàn người đi theo ông. Khi Ba-rác tấn công, CHÚA khiến Si-sê-ra, tất cả các chiến xa hắn, và tất cả quân đội đi theo hắn đều ngã chết dưới gươm. Si-sê-ra phải bỏ chiến xa chạy bộ tẩu thoát. Ba-rác đuổi theo các chiến xa và bộ binh đến tận Ha-rô-sết Ha-gô-im. Tất cả các quân sĩ của Si-sê-ra đều bị ngã chết dưới gươm, không một ai sống sót. Nhưng chỉ còn một mình Si-sê-ra là chạy bộ thoát được. Hắn chạy đến lều của Gia-ên, vợ của Hê-be, người Kê-nít; bởi vì giữa vua Gia-bin ở Hát-so và gia tộc của Hê-be, người Kê-nít, có mối giao hảo thân thiện với nhau. Gia-ên đi ra đón Si-sê-ra và nói với hắn: “Thưa ngài, xin mời ngài vào tệ xá. Đừng sợ gì cả.” Vậy hắn vào lều của bà, và bà lấy mền đắp hắn lại. Hắn nói với bà: “Tôi khát quá. Cho tôi xin miếng nước.” Bà mở bầu da đựng sữa ra, cho hắn uống, rồi lấy mền đắp hắn lại. Hắn bảo bà: “Bà hãy đứng nơi cửa lều. Nếu có ai đi qua và hỏi: ‘Có ai ở đây không?’ thì hãy trả lời rằng, ‘Không.’ ” Nói xong Si-sê-ra lăn ra ngủ say vì quá mệt mỏi. Bấy giờ Gia-ên, vợ của Hê-be, lấy một cây cọc trại, tay cầm cái búa, nhè nhẹ đến bên hắn. Bà đóng cây cọc trại vào màng tang hắn, thấu xuống đất, và hắn chết liền tại chỗ. Vừa khi Ba-rác truy tầm Si-sê-ra đi ngang qua đó, Gia-ên đi ra đón ông và nói: “Hãy đến đây. Tôi sẽ chỉ cho ông người mà ông đang tìm kiếm.” Vậy Ba-rác đi theo bà, và kìa, ông thấy Si-sê-ra nằm chết với cây cọc trại đâm thủng màng tang. Trong ngày đó Đức Chúa Trời bắt Gia-bin, vua dân Ca-na-an, phải khuất phục trước dân Y-sơ-ra-ên. Tay của dân Y-sơ-ra-ên càng ngày càng mạnh đối với Gia-bin, vua dân Ca-na-an, cho đến khi họ tiêu diệt vua ấy đi. Bài Ca Ngợi Của Đê-bô-ra Trong ngày ấy, Đê-bô-ra và Ba-rác, con trai của A-bi-nô-am hát rằng: “Khi các quan trưởng lãnh đạo trong Y-sơ-ra-ên, Và khi dân chúng tự nguyện vâng phục, Ca tụng CHÚA! Hỡi các vua, xin hãy nghe; hỡi các lãnh tụ, xin lắng nghe. Tôi sẽ hát cho CHÚA, Tôi sẽ hát một bài ca cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Lạy CHÚA, khi Ngài từ Sê-i-rơ đi ra, Khi Ngài đi qua vùng Ê-đôm, Thì đất rúng động, Trời đổ cơn mưa, Mây tuôn nước xuống. Các núi rúng động trước mặt CHÚA, Núi Si-nai run rẩy trước mặt CHÚA, Là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Trong ngày của Sam-ga, con trai A-nát, Trong ngày của Gia-ên, các đại lộ bị bỏ hoang, Khách bộ hành phải đi tránh vào các con đường nhỏ. Cuộc sống ở nông thôn đã ngưng lại, Nó đã ngưng lại cho đến khi tôi, Là Đê-bô-ra, chỗi dậy, Tôi chỗi dậy như một người mẹ trong Y-sơ-ra-ên. Khi dân chúng chọn cho họ các thần mới, Thì quân giặc đã vào tận trong các cổng thành. Và trong số bốn mươi ngàn người Y-sơ-ra-ên, Chẳng ai có được một cái khiên hay một cây giáo. Lòng tôi ngưỡng mộ các vị tư lệnh của Y-sơ-ra-ên, Họ thật hết lòng giúp dân giúp nước. Ca tụng CHÚA! Hỡi những ai cưỡi trên lừa trắng, Hỡi những ai ngồi trên yên phủ bằng thảm nhung, Hỡi những khách bộ hành trên đường, Xin hãy thuật chuyện ấy ra. Xin thuật ra cho những nhạc sĩ đang trổi nhạc bên bến nước, Để họ diễn đi diễn lại ca khúc chiến thắng của CHÚA, Là ca khúc chiến thắng của con dân Y-sơ-ra-ên. Hỡi con dân của CHÚA, Hãy cùng nhau kéo ra cổng thành Tấn công quân giặc. Thức dậy! Thức dậy! Hỡi Đê-bô-ra! Thức dậy! Thức dậy! Hãy hát một bài ca! Vùng dậy! Hỡi Ba-rác! Hãy dẫn những phu tù của ngươi đi; Hỡi con trai của A-bi-nô-am! Hãy tiến xuống, Hỡi con cháu còn sót lại của những nhà quý tộc; Dân của CHÚA tiến xuống Chống lại những kẻ cường bạo. Quân dân từ bộ tộc Ép-ra-im kéo nhau ra thung lũng, Phía sau ngươi lại có Bên-gia-min, là anh em ngươi; Những vị tư lệnh từ Ma-ki kéo đến, Và những người cầm gậy cầm quân từ Sa-bu-luân tiến ra. Những vị chỉ huy của Y-sa-ca cùng đi với Đê-bô-ra; Phải, Y-sa-ca đồng tâm hiệp lực với Ba-rác, Họ cùng nhau xông vào thung lũng. Còn trong các gia tộc của Ru-bên, Người ta cứ đắn đo suy nghĩ trong lòng. Vì sao các người còn nán trễ trong các ràn chiên, Mà nghe tiếng gọi các đàn chiên? Ở trong các gia tộc của Ru-bên, Người ta cứ đắn đo suy nghĩ trong lòng. Ga-la-át vẫn còn ở mãi bên kia sông Giô-đanh; Còn Đan, sao ngươi cứ lẩn quẩn trên các chiếc thuyền? A-se vẫn ngồi bất động bên bờ biển, Đành lòng an cư bên các bãi thuyền! Sa-bu-luân là những hào kiệt coi thường cái chết; Nép-ta-li cũng vậy, sẵn sàng hy sinh mạng sống ở chốn sa trường. Các vua kéo đến, họ liền tiến đánh; Họ đánh các vua Ca-na-an, Ở Ta-a-nác, bên giòng nước Mê-ghi-đô; Họ chẳng màng đến chiến lợi phẩm bạc tiền. Trên trời, các vì sao chiến đấu; Theo tuyến đường mình mà đánh hạ Si-sê-ra. Dòng nước ở Ki-sôn đã cuốn trôi chúng mất; Dòng nước lũ của Ki-sôn đã lôi cuốn chúng đi. Hỡi linh hồn ta, hãy dũng mãnh tiến lên! Tiếng vó ngựa vang lên dồn dập, Tiếng ngựa phi vang dội khắp nơi. Thiên sứ của CHÚA phán: ‘Hãy rủa sả Mê-rô, Hãy rủa sả dân cư của nó cách thậm tệ.’ Vì chúng chẳng chịu đến giúp đỡ CHÚA, Chúng không đến giúp đỡ CHÚA Đánh lại những kẻ cường bạo. Người phụ nữ được phước nhất là Gia-ên, Vợ của Hê-be, người Kê-nít, Ấy là người phụ nữ được phước nhất trong các bà nội trợ sống trong lều trại. Hắn hỏi nước, nàng đem cho sữa, Dùng chén sang đem sữa béo tiến dâng. Tay trái nàng cầm chiếc cọc, Tay phải nàng cầm cái búa của các lao công; Nàng đóng vào đầu Si-sê-ra một nhát, Đập bể đầu và đâm thủng màng tang. Hắn gục xuống, ngã quỵ, Nằm bất động nơi chân nàng; Hắn gục xuống nơi chân nàng, ngã quỵ; Hắn gục xuống nơi nào, hắn ngã chết ngay nơi đó. Mẹ của Si-sê-ra ngóng trông qua cửa sổ, Bà nhìn qua màng thưa che cửa, hỏi rằng: ‘Tại sao xe chiến mã của con ta chưa về? Tại sao tiếng vó ngựa của chiến xa con ta chưa vang dội?’ Những nữ nhân hầu hạ khôn khéo lựa lời giải đáp, Chính bà cũng tự trả lời và thầm nghĩ: ‘Há chẳng phải chúng đã kiếm được và đang chia nhau chiến lợi phẩm đấy sao? Một hay hai phụ nữ cho mỗi chàng chiến sĩ; Những chiến lợi phẩm bằng vải nhuộm thì dành cho Si-sê-ra, Ô những tấm vải thêu và nhuộm đẹp, Há chẳng phải hai tấm vải thêu và nhuộm đẹp Sẽ là chiến lợi phẩm làm khăn choàng cổ cho ta hay sao?’ Lạy CHÚA, nguyện tất cả những kẻ thù của Ngài đều bị diệt vong như vậy! Nguyện những kẻ yêu mến Ngài sẽ giống như Mặt trời mọc lên rạng rỡ.” Rồi xứ được hòa bình trong bốn mươi năm. Dân Y-sơ-ra-ên Bị Dân Ma-đi-an Đàn Áp Dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA, và Ngài phó họ vào tay dân Ma-đi-an bảy năm. Tay của dân Ma-đi-an thắng hơn dân Y-sơ-ra-ên. Vì cớ dân Ma-đi-an nên người Y-sơ-ra-ên phải sống trốn tránh trong các rừng núi, hang hóc, hoặc trong các thành trì kiên cố. Mỗi khi người Y-sơ-ra-ên ra gieo giống, thì dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và các dân phương đông kéo đến tấn công. Chúng dựng trại đóng quân đối nghịch họ. Chúng phá hủy tất cả các nông phẩm cho đến tận vùng Ga-xa, không chừa lại một thứ gì trong Y-sơ-ra-ên, kể cả chiên, bò, và lừa. Bởi vì chúng và những đàn súc vật của chúng kéo đến và dựng trại đông như cào cào. Người ta và lạc đà nhiều vô số, không thể đếm hết được. Chúng chiếm lấy xứ và phá hủy tất cả. Vậy, vì cớ dân Ma-đi-an mà người Y-sơ-ra-ên trở nên đói khổ rất thê thảm. Dân Y-sơ-ra-ên bèn khóc van cùng CHÚA xin cứu giúp. Khi dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu cùng CHÚA vì cớ dân Ma-đi-an, CHÚA bèn sai một vị tiên tri đến với dân Y-sơ-ra-ên phán bảo: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Ta đã đem các ngươi lên khỏi xứ Ai-cập, và đem các ngươi ra khỏi nhà nô lệ. Ta đã giải thoát các ngươi khỏi tay của người Ai-cập, và khỏi tay của những kẻ áp bức các ngươi. Ta đã đuổi chúng đi khỏi trước mặt các ngươi và ban cho các ngươi xứ của chúng, Ta đã phán: Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, các ngươi chớ thờ phượng các thần của dân A-mô-rít trong xứ các ngươi cư ngụ.’ Nhưng các ngươi nào có nghe theo tiếng Ta.” CHÚA Kêu Gọi Ghi-đê-ôn Bấy giờ thiên sứ của CHÚA đến ngồi dưới cây sồi của Óp-ra, trong đất của Giô-ách, thuộc gia tộc A-bi-ê-xê-rít. Ghi-đê-ôn, con trai Giô-ách, đang đập lúa nơi bàn ép rượu, để tránh khỏi dân Ma-đi-an. Thiên sứ của CHÚA hiện ra với ông và phán: “Nguyện CHÚA ở cùng ngươi, hỡi người chiến sĩ anh dũng.” Ghi-đê-ôn đáp: “Thưa Ngài, nếu CHÚA ở cùng chúng tôi, thì tại sao chúng tôi phải ra nông nỗi này? Nào những việc lạ lùng mà các tổ phụ chúng tôi thường kể lại cho chúng tôi nghe ở đâu? Họ bảo rằng: ‘CHÚA há chẳng đem các ngươi lên khỏi xứ Ai-cập hay sao?’ Nhưng bây giờ CHÚA đã bỏ chúng tôi, và phó chúng tôi vào tay dân Ma-đi-an.” CHÚA quay lại cùng ông và phán: “Hãy đi, dùng sức ngươi sẵn có mà giải thoát Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay dân Ma-đi-an. Ta há chẳng đang sai ngươi đó sao?” Ông đáp: “Nhưng thưa Ngài, làm sao tôi có thể giải thoát dân Y-sơ-ra-ên được? Gia tộc tôi là gia tộc nhỏ nhất trong bộ tộc Ma-na-se, còn trong gia đình tôi thì tôi là kẻ nhỏ nhất.” CHÚA phán với ông: “Nhưng Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh bại dân Ma-đi-an như đánh một người vậy.” Ghi-đê-ôn nói: “Nếu tôi được ơn trước mặt Ngài, thì xin Ngài hãy cho tôi một dấu lạ, để chứng tỏ rằng chính Ngài đã phán với tôi. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho đến khi tôi trở lại, mang theo tế lễ, kính dâng lên Ngài.” Ngài phán: “Ta sẽ ở đây cho đến khi ngươi trở lại.” Vậy Ghi-đê-ôn trở về nhà, bắt một con dê con, lấy mười ký bột làm bánh không men. Ông lấy thịt để vào một cái giỏ, và để cháo trong nồi, rồi đem tất cả các món ấy đến dưới cây sồi mà dâng cho Ngài. Thiên sứ của CHÚA phán: “Hãy lấy thịt và bánh không men để trên tảng đá này, rồi đổ cháo lên.” Ghi-đê-ôn làm y như vậy. Thiên sứ của CHÚA giơ tay ra, dùng đầu gậy cầm nơi tay đụng vào thịt và bánh không men; lửa từ tảng đá phựt lên thiêu đốt thịt và bánh không men, đồng thời thiên sứ của CHÚA cũng biến mất. Ghi-đê-ôn liền nhận biết rằng ấy là thiên sứ của CHÚA, ông nói: “Ôi lạy CHÚA, là CHÚA Toàn Năng! Thôi, con chắc sẽ chết, vì con đã gặp thiên sứ của CHÚA mặt đối mặt.” Nhưng CHÚA phán: “Hãy an tâm. Đừng sợ. Ngươi sẽ không chết đâu.” Ghi-đê-ôn liền xây một bàn thờ cho CHÚA tại đó và đặt tên là: CHÚA, Đấng Ban Bình An. Bàn thờ ấy vẫn còn ở Óp-ra, trong đất của A-bi-ê-xê-rít, cho đến ngày nay. Ghi-đê-ôn Phá Đổ Bàn Thờ Ba-anh Đêm đó CHÚA phán với ông: “Hãy bắt con bò đực của cha ngươi, và một con bò đực thứ nhì bảy tuổi, rồi cho kéo đổ bàn thờ Ba-anh của cha ngươi xuống. Cũng hãy chặt bỏ cây trụ A-sê-ra ở bên cạnh nó xuống. Sau đó hãy xây một bàn thờ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của ngươi trên vầng đá này, theo như cách đã ấn định; rồi bắt con bò đực thứ nhì làm tế lễ thiêu, và lấy gỗ của cây trụ A-sê-ra làm củi đốt.” Vậy, Ghi-đê-ôn chọn mười đầy tớ để giúp ông làm y như lời CHÚA dặn. Vì ông sợ những người khác trong gia đình và dân thành trông thấy, nên thay vì làm ban ngày, ông đã thực hiện việc đó trong ban đêm. Sáng hôm sau, khi dân thành thức dậy, họ thấy bàn thờ của Ba-anh đã đổ xuống, trụ tượng của A-sê-ra đã bị đốn mất, con bò thứ nhì đã được dâng trên bàn thờ vừa mới được xây. Họ bèn hỏi nhau: “Kẻ nào đã làm việc này?” Sau khi dò la và tra xét, họ được báo: “Ấy là Ghi-đê-ôn, con của Giô-ách, đã làm điều đó.” Dân thành liền nói với Giô-ách: “Hãy đem con ông ra đây, để nó phải chết. Vì nó đã dám phá dỡ bàn thờ của Ba-anh, và đốn bỏ trụ tượng của A-sê-ra ở bên cạnh.” Nhưng Giô-ách trả lời những người đương đầu với ông: “Có phải các người muốn đấu tranh cho Ba-anh chăng? Các người muốn binh vực cho nó phải không? Ai muốn đấu tranh cho nó thì sẽ bị xử tử sáng nay. Vì nếu nó là thần thì hãy để nó tự đấu tranh cho nó đi. Bởi vì bàn thờ của nó đã bị phá đổ kia mà.” Vì thế, ngày hôm đó người ta gọi Ghi-đê-ôn là Giê-ru-ba-anh; vì nói rằng: “Thôi để cho Ba-anh đấu tranh với ông ấy đi.” Vì ông ấy đã phá đổ bàn thờ của nó kia mà. Ghi-đê-ôn Mộ Binh Bấy giờ tất cả dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và các dân tộc ở phương đông hiệp lại với nhau. Chúng vượt qua sông Giô-đanh và hạ trại ở thung lũng Ghít-rê-ên. Thần của CHÚA cảm động Ghi-đê-ôn; ông thổi kèn triệu tập, và gia tộc A-bi-ê-xê-rít đều nhóm lại theo ông. Ông sai sứ giả đến khắp địa phận Ma-na-se, và họ cùng nhau hiệp lại theo ông. Ông cũng sai sứ giả đến A-se, Sa-bu-luân, và Nép-ta-li. Họ thảy đều đi lên và hiệp với ông. Dấu Hiệu Tấm Lông Chiên Bấy giờ Ghi-đê-ôn thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Để biết chắc là Ngài muốn dùng tay con giải thoát dân Y-sơ-ra-ên, như lời Ngài đã phán, thì con xin để một tấm lông chiên trong sân đập lúa; nếu sương chỉ đọng trên tấm lông chiên mà thôi, còn đất xung quanh đều khô ráo, thì con biết rằng Ngài sẽ dùng tay con để giải thoát dân Y-sơ-ra-ên như lời Ngài đã phán.” Việc bèn xảy ra như vậy. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, ra lấy tấm lông chiên mà vắt, sương từ trong tấm lông chiên chảy ra, hứng đầy một chén. Ghi-đê-ôn lại thưa với Đức Chúa Trời: “Xin Ngài đừng nổi giận cùng con. Xin cho con thưa thêm một lần nữa. Xin cho con thử lại với tấm lông chiên một lần nữa. Lần này, xin cho chỉ tấm lông chiên là khô, còn đất xung quanh sẽ phủ đầy sương.” Đêm đó, Đức Chúa Trời làm y như vậy. Chỉ có tấm lông chiên là khô ráo, còn đất xung quanh đều đọng sương ướt đẫm. Ghi-đê-ôn Đánh Bại Dân Ma-đi-an Sáng hôm sau, Giê-ru-ba-anh7:1 Tức là Ghi-đê-ôn cùng tất cả quân binh dậy sớm và đến hạ trại bên suối Ha-rốt; còn trại của dân Ma-đi-an thì nằm trong thung lũng, về phía bắc của họ, dưới chân đồi Mô-rê. CHÚA phán với Ghi-đê-ôn rằng: “Đạo binh theo ngươi đông quá. Nếu Ta phó dân Ma-đi-an vào tay họ, thì dân Y-sơ-ra-ên sẽ tự phụ mà nói rằng: ‘Chính tay ta đã tự giải thoát lấy ta.’ Vậy bây giờ ngươi hãy truyền lệnh trong đạo binh rằng: ‘Ai cảm thấy run sợ và kinh hãi, thì hãy rời khỏi núi Ga-la-át mà trở về nhà đi.’ ” Thế là có hai mươi hai ngàn người ra về, chỉ còn mười ngàn người ở lại. CHÚA lại phán với Ghi-đê-ôn: “Đạo binh hãy còn đông quá. Hãy bảo họ xuống uống nước, rồi tại đó Ta sẽ lựa ra cho ngươi. Khi Ta phán: ‘Kẻ này được đi với ngươi,’ thì kẻ ấy sẽ đi với ngươi; và khi Ta phán: ‘Kẻ này không được đi với ngươi,’ thì kẻ ấy sẽ không được đi với ngươi.” Vậy, ông truyền cho đạo binh xuống uống nước; và CHÚA phán với Ghi-đê-ôn rằng: “Tất cả những kẻ dùng lưỡi liếm nước như chó uống nước, thì ngươi hãy để họ ra một bên. Còn những ai cúi xuống uống nước, nhưng lấy tay bụm mà đưa lên miệng, thì ngươi hãy để họ ra một bên.” Chỉ có ba trăm người là bụm nước và đưa lên miệng uống, còn tất cả đều hụp xuống mà uống nước. CHÚA lại phán với Ghi-đê-ôn: “Ta sẽ dùng ba trăm người bụm tay uống nước đó mà giải cứu các ngươi, và Ta sẽ phó dân Ma-đi-an vào tay ngươi. Hãy cho tất cả những người khác trở về nhà.” Vậy Ghi-đê-ôn cho tất cả những người Y-sơ-ra-ên ấy về nhà, mà chỉ giữ lại có ba trăm người. Rồi họ nhận lương thực và cầm những chiếc kèn trong tay. Vả, trại quân của dân Ma-đi-an nằm trong thung lũng, ở phía dưới. Đêm đó, CHÚA phán với Ghi-đê-ôn: “Hãy đứng dậy, xuống tấn công trại quân Ma-đi-an, vì Ta sẽ phó nó vào tay ngươi. Nhưng nếu ngươi sợ tấn công, thì hãy dẫn Phu-ra, đầy tớ ngươi, rồi cùng nó đi xuống đó. Ngươi hãy nghe điều chúng nói, rồi sau đó ngươi sẽ được phấn chí mà tấn công trại giặc.” Vậy Ghi-đê-ôn cùng Phu-ra, đầy tớ ông, lẻn tới gần trạm canh, ở đầu trại. Vả, dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và các dân tộc phương Đông dựng trại trong thung lũng đông như cào cào; lạc đà của chúng đông vô số, chẳng khác gì cát nơi bờ biển. Khi Ghi-đê-ôn đến, ông nghe một tên lính nói với bạn đồng đội hắn rằng: “Tôi nằm mơ, thấy có một cái bánh lúa mạch tròn lăn vào trại quân Ma-đi-an. Bánh ấy đụng vào trại làm cho trại bật ngã, khiến nó lật ngược từ trên xuống dưới, và làm cho trại bị sụp đổ.” Người bạn hắn đáp: “Điềm đó chẳng khác gì gươm của Ghi-đê-ôn, con trai Giô-ách, người Y-sơ-ra-ên. Trời đã phó dân Ma-đi-an và tất cả đội quân này vào tay người ấy rồi.” Khi Ghi-đê-ôn nghe được điềm chiêm bao và nghe rõ lời giải nghĩa thì ông thờ lạy Đức Chúa Trời; rồi ông trở về trại quân Y-sơ-ra-ên và nói: “Hãy thức dậy! Vì CHÚA đã phó đội quân của dân Ma-đi-an vào tay anh em.” Sau khi ông chia ba trăm người thành ba đội, ông trao cho mỗi người một chiếc kèn, một bình không, và một cây đuốc trong bình; rồi ông bảo họ: “Anh em hãy để ý tôi. Hễ tôi làm sao thì anh em làm vậy. Khi tôi đến gần trại giặc, tôi làm thể nào thì anh em cứ làm theo thể ấy. Khi tôi và những người theo tôi thổi kèn, thì anh em cũng hãy thổi kèn quanh trại giặc và la lớn rằng: Vì CHÚA và vì Ghi-đê-ôn!” Vậy Ghi-đê-ôn và một trăm người đi với ông đến vòng đai trại giặc vào khoảng giữa khuya, ngay sau khi đổi gác. Họ thổi kèn, đập vỡ bình cầm sẵn trong tay. Vậy cả ba đội cùng thổi kèn, đập vỡ bình, tay trái giơ cao ngọn đuốc, tay phải cầm kèn và thổi, xong họ la lớn: “Hãy tuốt gươm vì CHÚA và vì Ghi-đê-ôn!” Ai nấy cứ đứng y tại vị trí mình, quanh trại giặc. Bấy giờ cả trại quân đều vỡ chạy; chúng la hét và chạy trốn. Khi họ thổi ba trăm chiếc kèn, CHÚA khiến quân giặc rút gươm chém giết lẫn nhau, và cả đội quân tàn sát lẫn nhau. Tàn quân chạy thoát được trốn đến tận Bết Si-ta, về hướng Xê-rê-đa, và tận biên giới A-bên Mê-hô-la, gần Ta-bát. Dân Y-sơ-ra-ên từ các bộ tộc Nép-ta-li, A-se, và Ma-na-se được tin báo, bèn cùng nhau đuổi giết dân Ma-đi-an. Bấy giờ Ghi-đê-ôn sai các sứ giả đến khắp miền núi Ép-ra-im kêu gọi: “Xin hãy xuống đánh dân Ma-đi-an và chiếm các chỗ nước cạn của sông Giô-đanh cho đến Bết Ba-ra, và giữ dọc theo bờ sông.” Vậy tất cả các nam đinh của Ép-ra-im kéo nhau ra. Họ chiếm giữ những chỗ nước cạn của sông Giô-đanh cho đến Bết Ba-ra, và giữ dọc theo bờ sông. Họ bắt sống hai tướng của quân Ma-đi-an là Ô-rếp và Xê-ép. Họ giết Ô-rếp ở tảng đá Ô-rếp, và giết Xê-ép ở vựa ép rượu Xê-ép. Họ tiếp tục truy đuổi dân Ma-đi-an và mang thủ cấp của Ô-rếp và Xê-ép đến trình cho Ghi-đê-ôn lúc ấy đang ở bên kia sông Giô-đanh. Ghi-đê-ôn Chiến Thắng Và Báo Thù Bấy giờ người Ép-ra-im đến bắt bẻ Ghi-đê-ôn rằng: “Tại sao ông đối xử với chúng tôi như vậy? Tại sao khi đi đánh dân Ma-đi-an mà ông không cho gọi chúng tôi?” Họ đả kích Ghi-đê-ôn nặng nề. Nhưng Ghi-đê-ôn đáp lời họ: “Những gì tôi làm có thể sánh được với anh em sao? Há chẳng phải nho mót của Ép-ra-im còn hơn cả một mùa nho của A-bi-ê-se sao? Đức Chúa Trời đã phó vào tay anh em hai tướng lãnh của dân Ma-đi-an là Ô-rếp và Xê-ép, thì những gì tôi đã làm có thể sánh được với anh em sao?” Khi nghe ông nói thế, cơn giận của họ bèn dịu xuống. Ghi-đê-ôn đến sông Giô-đanh và qua sông xong, ông và ba trăm người đi với ông đều mệt đuối nhưng họ vẫn cố sức truy đuổi. Ghi-đê-ôn đến nói với dân Su-cốt rằng: “Xin các ông cho những người theo tôi ít bánh, vì họ kiệt sức quá rồi, và tôi đang truy kích Xê-bách và Xanh-mu-na, là các vua của dân Ma-đi-an.” Nhưng các quan chức của Su-cốt đáp: “Ông đã cầm chắc trong tay ông sinh mạng của Xê-bách và Xanh-mu-na chưa mà chúng tôi phải lấy bánh cho binh lính ông ăn?” Ghi-đê-ôn đáp: “Nếu vậy thì khi CHÚA đã phó Xê-bách và Xanh-mu-na vào tay tôi, tôi sẽ dùng gai trong sa mạc và gai thạch nam mà xẻ thịt các người ra.” Từ đó ông tiến lên Phê-nu-ên, và cũng hỏi dân Phê-nu-ên như vậy, nhưng họ cũng đáp lại với ông giống như dân Su-cốt đã đáp. Cho nên ông nói với dân Phê-nu-ên rằng: “Khi tôi trở về trong chiến thắng, tôi sẽ phá tan cái tháp này.” Bấy giờ Xê-bách và Xanh-mu-na đang ở tại Cát-ca với khoảng mười lăm ngàn binh lính. Đó là quân số còn lại của đại quân các dân phương đông; vì một trăm hai mươi ngàn người cầm gươm đã ngã chết. Ghi-đê-ôn đi lên theo ngả của dân du mục, về phía đông của Nô-bách và Giô-bê-ha, và tấn công vào đội quân trong khi họ không ngờ. Xê-bách và Xanh-mu-na liền chạy trốn; ông đuổi theo họ và bắt được hai vua của dân Ma-đi-an, là Xê-bách và Xanh-mu-na, nên tàn quân liền rối loạn. Ghi-đê-ôn con của Giô-ách từ chiến trường trở về, theo ngả đèo Hê-re. Ông bắt được một cậu thiếu niên, là dân ở Su-cốt, và tra hỏi cậu ấy. Cậu ấy liền kê khai cho Ghi-đê-ôn tên của tất cả quan chức và trưởng lão của thành Su-cốt, gồm bảy mươi bảy người. Sau đó Ghi-đê-ôn đến với dân Su-cốt và nói: “Đây là Xê-bách và Xanh-mu-na, là những người mà các ông đã mỉa mai tôi rằng ‘Ông đã cầm chắc trong tay ông sinh mạng của Xê-bách và Xanh-mu-na chưa mà chúng tôi phải lấy bánh cho binh lính mệt đuối của ông ăn?’ ” Vậy ông bắt các trưởng lão trong thành, rồi lấy gai trong sa mạc và gai thạch nam mà đánh phạt họ, tức là những người ở Su-cốt. Ông cũng phá hủy tháp Phê-nu-ên và giết những người ở thành ấy. Kế đó Ghi-đê-ôn hỏi Xê-bách và Xanh-mu-na: “Những người các ngươi giết ở Tha-bô như thế nào?” Họ đáp: “Họ cũng giống như ngươi, người nào cũng vậy, trông như những vương tử.” Ông đáp: “Họ là anh em ta, các con trai của mẹ ta. Thật như CHÚA hằng sống, nếu các ngươi để cho họ còn sống thì ta sẽ không giết các ngươi đâu.” Rồi ông bảo Giê-the, con trưởng nam ông: “Con hãy lại giết họ đi.” Nhưng cậu thiếu niên không dám rút gươm ra, vì cậu ấy sợ, bởi cậu còn niên thiếu. Xê-bách và Xanh-mu-na bèn nói: “Chính ngươi hãy lại giết chúng ta, vì người sao thì sức vậy.” Vậy Ghi-đê-ôn tiến đến và giết Xê-bách và Xanh-mu-na; rồi ông lấy những vật hình lưỡi liềm đeo nơi cổ các lạc đà của họ. Ghi-đê-ôn Đúc Ê-phót Bấy giờ dân Y-sơ-ra-ên nói với Ghi-đê-ôn rằng: “Hãy cai trị chúng tôi, ông, con trai ông, và cháu của ông nữa. Vì ông đã giải thoát chúng tôi khỏi tay dân Ma-đi-an.” Ghi-đê-ôn đáp lời họ: “Tôi sẽ không cai trị anh em, con trai tôi cũng sẽ không cai trị anh em. CHÚA sẽ cai trị anh em.” Rồi Ghi-đê-ôn nói tiếp: “Tôi có một lời yêu cầu anh em. Xin mỗi người hãy cho tôi một vòng đeo tai mà anh em đã lấy làm chiến lợi phẩm.”8:24 Vì quân giặc đều đeo khoen tai bằng vàng, bởi họ là dòng dõi của Ích-ma-ên Họ đáp: “Chúng tôi rất sẵn sàng cho ông.” Vậy họ trải một áo choàng ra, rồi mỗi người ném vào một vòng đeo tai mà họ đã lấy làm chiến lợi phẩm. Số vàng của các vòng đeo tai mà Ghi-đê-ôn xin, cân được một ngàn bảy trăm sê-ken,8:26 Khoảng 19.5kg không kể những lưỡi liềm, những trân châu, những bộ vương phục màu tím của các vua Ma-đi-an, và những kiềng trang sức trên cổ lạc đà của họ. Ghi-đê-ôn lấy những vàng đó đúc thành một ê-phót, rồi đặt nó trong thành của ông, tại Óp-ra. Toàn dân Y-sơ-ra-ên phạm tội bất trung với Chúa bằng cách thờ phượng nó, và nó đã trở thành một cái bẫy cho Ghi-đê-ôn và gia đình ông. Vậy dân Ma-đi-an bị khuất phục trước dân Y-sơ-ra-ên, và chúng chẳng ngất đầu lên được nữa. Trọn đời của Ghi-đê-ôn, xứ được bình yên trong bốn mươi năm. Ghi-đê-ôn Qua Đời Giê-ru-ba-anh, con trai của Giô-ách trở về sống trong nhà ông. Ông có bảy mươi con trai; ấy là những con ruột của ông, vì ông có nhiều vợ. Một tỳ thiếp của ông, quê ở Si-chem, cũng sinh cho ông một con trai, mà ông đặt tên là A-bi-mê-léc. Rồi Ghi-đê-ôn, con trai của Giô-ách, qua đời trong tuổi già nua, và người ta chôn ông trong mộ của cha ông là Giô-ách tại Óp-ra, thuộc địa phận của gia tộc A-bi-ê-xê-rít. Vừa khi Ghi-đê-ôn qua đời, dân Y-sơ-ra-ên liền sa ngã và phạm tội bất trung vì đi theo các thần Ba-anh. Họ tôn Ba-anh Bê-rít làm thần của họ. Dân Y-sơ-ra-ên chẳng nhớ rằng CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã giải cứu họ khỏi tay quân thù tứ phía. Họ cũng chẳng bày tỏ lòng trung thành với gia đình của Giê-ru-ba-anh, tức Ghi-đê-ôn, để đền đáp những điều tốt đẹp mà ông đã làm cho Y-sơ-ra-ên. A-bi-mê-léc Mưu Đồ Soán Vị Bấy giờ A-bi-mê-léc, con của Giê-ru-ba-anh đến Si-chem gặp các cậu và những bà con bên ngoại của hắn và nói với họ rằng: “Hãy đi hỏi tất cả những thủ lãnh ở Si-chem xem: ‘Điều nào là tốt hơn cho các ông, tất cả bảy mươi con trai của Giê-ru-ba-anh cai trị các ông, hay chỉ cần một người cai trị các ông thôi?’ Hãy nhớ rằng tôi là máu mủ ruột thịt của các ông đó.” Vậy những bà con bên ngoại của hắn lặp lại những lời này để ủng hộ hắn trước mặt những thủ lãnh của Si-chem. Lòng họ bèn nghiêng theo A-bi-mê-léc, vì họ nói: “Ông ấy là anh em của chúng ta mà.” Họ bèn cho A-bi-mê-léc bảy mươi miếng bạc lấy từ quỹ trong đền thờ của Ba-anh Bê-rít. A-bi-mê-léc dùng số bạc đó mướn những kẻ du đãng hoang đàng đi theo hắn. Hắn trở về nhà cha hắn ở Óp-ra, và trên một tảng đá giết chết bảy mươi anh em của hắn, là các con trai của Giê-ru-ba-anh; ngoại trừ Giô-tham, là con trai út của Giê-ru-ba-anh, còn sống sót, vì người ấy ẩn trốn. Bấy giờ tất cả các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô họp nhau lại tại trụ đá cạnh cây sồi ở Si-chem và lập A-bi-mê-léc làm vua. Ngụ Ngôn Về Các Cây Cối Khi Giô-tham nghe được tin ấy, ông bèn đi lên đỉnh đèo trên núi Ghê-ri-xim, cất tiếng lớn và nói rằng: “Hỡi những thủ lãnh của Si-chem, xin hãy nghe tôi, Hầu cho Đức Chúa Trời có thể nghe các ông: Các cây cối đến với nhau để xức dầu Cho một kẻ làm vua trên chúng. Chúng đến nói với cây ô-liu rằng: ‘Hãy trị vì chúng tôi.’ Cây ô-liu đáp: ‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất dầu của ta, Là dầu các thần linh và các vua chúa tôn quý, Mà đi dao động trên các cây cối sao?’ Các cây bèn đến cây vả và nói: ‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’ Nhưng cây vả đáp: ‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất sự ngọt ngào của ta, Và những trái ngọt ngon của ta, Mà đi dao động trên các cây cối sao?’ Các cây bèn đến cây nho và nói: ‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’ Nhưng cây nho đáp: ‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất rượu nho của ta, Là rượu làm cho các thần linh và các phàm nhân phấn khởi, Mà đi dao động trên các cây cối sao?’ Các cây bèn đến cây gai và nói: ‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’ Cây gai bèn nói với chúng: ‘Nếu các ngươi thật lòng muốn xức dầu cho ta làm vua trên các ngươi, Thì hãy đến núp dưới bóng của ta; Nếu không, lửa từ gai ta sẽ phát ra Thiêu rụi những cây tùng hương của Li-ban.’ Vậy bây giờ, nếu các ông bởi lòng thành và danh dự mà tôn A-bi-mê-léc lên làm vua, nếu các ông đối xử tốt với Giê-ru-ba-anh và gia đình người, và báo đáp cho người xứng đáng với những việc người đã làm, vì cha tôi đã chiến đấu cho các ông, xả thân cho các ông, và giải cứu các ông khỏi tay dân Ma-đi-an; nhưng bây giờ các ông nổi lên nghịch lại gia đình của cha tôi, giết hại các con trai người, bảy mươi người chết trên một tảng đá, rồi tôn A-bi-mê-léc, con trai của tỳ thiếp người lên làm vua trên các thủ lãnh của Si-chem, bởi vì hắn là bà con của các ông, vậy ngày nay, nếu các ông bởi lòng thành và danh dự mà đối với Giê-ru-ba-anh và gia đình người, thì xin các ông cứ vui vẻ với A-bi-mê-léc, và hãy để hắn vui vẻ với các ông; nhưng nếu không phải, thì nguyện lửa từ A-bi-mê-léc thoát ra thiêu hủy các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô; và nguyện lửa từ các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô thiêu hủy A-bi-mê-léc.” Nói xong, Giô-tham chạy trốn đến xứ Bê-e. Ông trốn đến đó vì sợ anh của ông là A-bi-mê-léc. A-bi-mê-léc Thất Bại A-bi-mê-léc cai trị trên Y-sơ-ra-ên được ba năm. Bấy giờ Chúa cho phép một tà linh đến giữa A-bi-mê-léc và các thủ lãnh của Si-chem; và các thủ lãnh của Si-chem sinh lòng phản bội A-bi-mê-léc. Điều này xảy ra để báo thù cho tội ác đối với bảy mươi con trai của Giê-ru-ba-anh, và máu của họ phải đổ lại trên A-bi-mê-léc, là anh em của họ, và là kẻ đã giết họ, đồng thời cũng đổ lại trên các thủ lãnh của Si-chem là những người đã tiếp tay cho A-bi-mê-léc để giết hại các anh em của hắn. Vậy, để bày tỏ sự chống đối của họ, các thủ lãnh của Si-chem tổ chức những cuộc phục kích ở các đỉnh đèo. Họ cướp giựt những khách bộ hành qua lại các nơi đó; và người ta báo cáo cho A-bi-mê-léc biết chuyện này. Lúc ấy, Ga-anh con trai Ê-bết, cùng với anh em hắn dọn vào Si-chem. Các thủ lãnh của Si-chem để lòng tin tưởng nơi hắn. Chúng ra đồng, hái nho, ép rượu, và tổ chức tiệc mừng. Rồi chúng vào đền thờ thần của chúng mà ăn, uống và chế giễu A-bi-mê-léc. Ga-anh con trai Ê-bết nói: “A-bi-mê-léc là ai, và chúng ta là ai trong thành Si-chem này mà phải phục vụ hắn? Há chẳng phải con trai của Giê-ru-ba-anh và Xê-bun là quan viên của hắn phải phục vụ những người của Ha-mô, tổ phụ của Si-chem hay sao? Tại sao chúng ta phải phục vụ hắn chứ? Nếu dân này mà ở dưới quyền tôi, thì tôi sẽ dẹp bỏ hắn ngay. Tôi sẽ bảo A-bi-mê-léc rằng, ‘Có giỏi thì dẫn hết đạo quân của ngươi ra đây.’ ” Khi Xê-bun, là quan viên cai trị thành, nghe những lời của Ga-anh con trai Ê-bên nói thế thì rất tức giận. Xê-bun mật sai các sứ giả đến gặp A-bi-mê-léc tại A-ru-ma và tâu rằng: “Đây này, Ga-anh con trai Ê-bết và anh em hắn đã kéo đến Si-chem; chúng đang xúi giục dân thành chống lại vua. Vậy bây giờ, ban đêm, xin vua và các đội quân của vua hãy đến và nằm phục kích ngoài đồng. Đợi khi hừng đông đến, vừa khi mặt trời mọc, xin hãy tấn công vào thành; rồi khi hắn và binh sĩ của hắn kéo ra đối địch, xin vua hãy xử chúng như thế nào tuỳ ý.” Vậy A-bi-mê-léc và tất cả quân lính của hắn chỗi dậy, chia thành bốn đội, đang đêm tiến đến Si-chem, và nằm phục kích ngoài đồng. Khi Ga-anh con trai Ê-bết đi ra và đứng ở cổng thành, A-bi-mê-léc và các quân lính hắn từ chỗ phục kích chỗi dậy. Ga-anh thấy vậy, nói với Xê-bun: “Xem kìa, có người từ trên các đỉnh núi đi xuống!” Xê-bun đáp: “Ấy chỉ là bóng mát của núi mà ông tưởng là người ta đó thôi.” Ga-anh lại nói: “Xem kìa, có người đang từ giữa đồi tràn xuống, và một đội nữa đang từ hướng Cây Thầy Bói đổ về.” Bấy giờ Xê-bun nói: “Những lời phách lối của ông đâu rồi? Ông là người đã nói rằng: ‘A-bi-mê-léc là ai mà chúng ta phải phục vụ hắn?’ Có phải đây là đội quân mà ông đã coi thường chăng? Vậy bây giờ xin ông hãy ra đối địch với họ đi.” Vậy Ga-anh đi trước các thủ lãnh của Si-chem và ra đối địch với A-bi-mê-léc. A-bi-mê-léc đánh đuổi hắn và hắn bỏ chạy trước mặt A-bi-mê-léc. Nhiều người đã tử thương và ngã xuống, đến tận cổng thành. Vậy A-bi-mê-léc ở tại A-ru-ma, còn Xê-bun đuổi Ga-anh và anh em hắn đi, và chúng không còn ở trong Si-chem nữa. Hôm sau, dân thành đi ra đồng. Khi nghe tin báo, A-bi-mê-léc liền dẫn quân lính, chia làm ba đội, nằm phục kích ngoài đồng. Khi hắn thấy dân chúng từ trong thành đã ra đồng, hắn và quân lính hắn chỗi dậy đánh giết họ. A-bi-mê-léc và đội quân đi với hắn tiến vào án ngữ cổng thành, trong khi hai đội kia tấn công những người còn ở ngoài đồng và giết họ. Suốt ngày hôm đó, A-bi-mê-léc tấn công thành; hắn chiếm được thành, giết chết dân cư trong thành, phá hủy thành, và rắc muối trên nó. Khi các thủ lãnh ở Tháp Si-chem nghe thế, họ liền rút vào chiến lũy của đền thờ thần Ên-Bê-rít. A-bi-mê-léc được báo tin rằng tất cả các thủ lãnh của Tháp Si-chem đang họp lại trong đó. A-bi-mê-léc liền lên núi Sanh-môn với đội quân hắn. Hắn lấy một cái rìu, chặt mấy nhánh cây, rồi vác lên vai. Xong hắn bảo các quân sĩ hắn rằng: “Các ngươi có thấy điều ta làm chăng. Lẹ lên. Hãy làm như ta làm.” Vậy mỗi binh sĩ đều chặt các nhánh cây, vác trên vai, đi theo A-bi-mê-léc xuống chất xung quanh chiến lũy và châm lửa đốt nó. Thế là tất cả những người trong Tháp Si-chem đều chết hết; ước chừng một ngàn người, cả nam lẫn nữ. Sau đó A-bi-mê-léc kéo đến Thê-be, vây lấy Thê-be, và đánh hạ thành ấy. Nhưng trong thành có một cái tháp rất kiên cố. Tất cả dân chúng trong thành, cả nam lẫn nữ, và các thủ lãnh của thành đều rút vào trong tháp đó, khóa chặt cửa lại, rồi lên trên sân thượng của tháp. A-bi-mê-léc bèn tiến gần và tấn công tháp. Nhưng khi hắn lại gần cổng tháp để châm lửa đốt nó, thì có một phụ nữ lấy nửa trên của cối đá ném trúng đầu của hắn và làm hắn bị vỡ sọ. Hắn liền gọi người lính vác binh khí cho hắn và bảo: “Hãy rút gươm ra và giết ta ngay, kẻo người ta sẽ bảo: ‘Hắn đã bị một người đàn bà giết chết.’ ” Vậy người lính trẻ đâm hắn một nhát và hắn chết. Khi dân Y-sơ-ra-ên thấy rằng A-bi-mê-léc đã chết, họ đều trở về nhà mình. Như thế, Đức Chúa Trời đã báo trả cho A-bi-mê-léc tội ác mà hắn đã phạm cùng cha hắn, vì hắn giết chết bảy mươi anh em của hắn. Đức Chúa Trời cũng khiến mọi sự gian ác của dân Si-chem đổ lại trên đầu họ. Những lời nguyền rủa của Giô-tham, con trai Giê-ru-ba-anh đã đến trên chúng. Thô-la Sau A-bi-mê-léc có Thô-la con trai Phu-a, con cháu Đô-đô, thuộc bộ tộc Y-sa-ca, dấy lên để giải cứu Y-sơ-ra-ên. Ông sống tại Sa-mia, trên cao nguyên Ép-ra-im. Ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên hai mươi ba năm rồi qua đời và được chôn ở Sa-mia. Giai-rơ Sau ông có Giai-rơ ở Ga-la-át. Ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên hai mươi hai năm. Ông có ba mươi con trai, cỡi ba mươi con lừa, và quản trị ba mươi thôn trong vùng Ga-la-át, mà ngày nay người ta còn gọi là quận Giai-rơ. Khi Giai-rơ qua đời, người ta chôn ông tại Kha-môn. Dân Phi-li-tin Và Dân Am-môn Hà Hiếp Dân Y-sơ-ra-ên Sau việc ấy, dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA. Họ phục vụ các thần Ba-anh, các thần Át-tạc-tê, các thần của dân A-ram, các thần của dân Si-đôn, các thần của dân Mô-áp, các thần của dân Am-môn, và các thần của dân Phi-li-tin. Họ lìa bỏ CHÚA và không phục vụ Ngài. Cơn thịnh nộ của CHÚA nổi lên cùng Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ vào tay dân Phi-li-tin và vào tay dân Am-môn. Bắt đầu từ năm đó chúng hà hiếp và chà đạp dân Y-sơ-ra-ên; rồi trong mười tám năm, chúng đàn áp dân Y-sơ-ra-ên ở phía đông sông Giô-đanh, trong vùng Ga-la-át, là xứ của dân A-mô-rít. Dân A-mô-rít cũng vượt qua sông Giô-đanh tiến đánh Giu-đa, Bên-gia-min, và nhà Ép-ra-im. Dân Y-sơ-ra-ên bị khốn đốn rất lớn. Bấy giờ dân Y-sơ-ra-ên kêu van cùng CHÚA rằng: “Chúng con đã phạm tội nghịch lại CHÚA, chúng con đã lìa bỏ Đức Chúa Trời mà đi phục vụ các thần Ba-anh.” CHÚA đáp cùng dân Y-sơ-ra-ên: “Khi dân Ai-cập, dân A-mô-rít, dân Am-môn, dân Phi-li-tin, dân Si-đôn, dân A-ma-léc và dân Ma-ôn đàn áp các ngươi và các ngươi kêu van cùng Ta xin giúp đỡ, Ta há không cứu các ngươi ra khỏi tay chúng sao? Nhưng các ngươi đã lìa bỏ Ta mà phục vụ các thần khác, vậy Ta sẽ không cứu giúp các ngươi nữa. Hãy đi kêu cầu các thần mà các ngươi đã chọn. Hãy để chúng cứu giúp các ngươi khi các ngươi bị hoạn nạn.” Nhưng dân Y-sơ-ra-ên thưa cùng CHÚA: “Chúng con đã phạm tội. CHÚA muốn đối xử với chúng con thế nào cũng được, nhưng bây giờ xin CHÚA hãy giải cứu chúng con trước đã.” Họ loại bỏ tất cả các thần ngoại bang ra khỏi họ và họ trở lại phục vụ CHÚA. Lòng Ngài không thể chịu nổi sự đau khổ của Y-sơ-ra-ên nữa. Khi dân Am-môn kéo quân ra hạ trại tại Ga-la-át, dân Y-sơ-ra-ên hiệp nhau lại và hạ trại tại Mích-ba. Những người lãnh đạo của dân Y-sơ-ra-ên ở Ga-la-át nói với nhau: “Ai tấn công dân Am-môn trước sẽ thành lãnh tụ của mọi người sống ở Ga-la-át.” Giép-thê Giép-thê, người Ga-la-át là một dũng sĩ. Mẹ ông là một gái điếm, cha ông là Ga-la-át. Vợ của Ga-la-át cũng sinh được các con trai. Khi các con trai này lớn lên, họ đuổi Giép-thê đi mà rằng: “Anh không được hưởng gia tài trong gia đình này, vì anh là con của người đàn bà khác.” Vậy Giép-thê lánh xa các em mình và định cư ở xứ Tóp. Có những kẻ lãng tử tụ hiệp theo ông. Sau đó, dân Am-môn kéo ra giao chiến với dân Y-sơ-ra-ên. Các trưởng lão ở Ga-la-át đến xứ Tóp đem Giép-thê về. Họ nói với ông: “Xin về lãnh đạo chúng tôi để chống lại dân Am-môn.” Nhưng Giép-thê đáp với họ: “Các ông há chẳng ghét tôi và đuổi tôi khỏi nhà cha tôi sao? Tại sao bây giờ khi gặp hoạn nạn các ông lại đến với tôi?” Các trưởng lão của Ga-la-át đáp: “Xin ông bỏ qua chuyện cũ, bây giờ chúng tôi xin trở lại với ông, ông hãy đi với chúng tôi để chống cự dân Am-môn, và xin ông hãy làm thủ lãnh của tất cả chúng tôi ở Ga-la-át.” Giép-thê đáp: “Các ông mời tôi về đánh lại dân Am-môn và nếu CHÚA phó dân Am-môn vào tay tôi, liệu các ông có thật sự để tôi làm thủ lãnh của các ông không?” Các trưởng lão của Ga-la-át đáp: “Xin CHÚA làm chứng. Chúng tôi quả quyết sẽ làm như điều ông nói.” Vậy Giép-thê đi với các trưởng lão của Ga-la-át. Dân Ga-la-át lập ông làm thủ lãnh và thống soái của họ. Rồi trước mặt CHÚA, tại Mích-ba, ông lặp lại mọi lời ông đã giao kết. Đoạn Giép-thê sai sứ đến vua Am-môn và hỏi: “Chúng tôi với vua có thù nghịch chi mà vua xua quân hãm đánh đất nước chúng tôi?” Vua Am-môn trả lời các sứ giả của Giép-thê rằng: “Đó là vì khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập có chiếm lấy đất của ta, từ Ạt-nôn cho đến Gia-bốc và đến tận sông Giô-đanh. Vậy bây giờ hãy êm thắm trả lại cho ta.” Giép-thê sai các sứ giả trở lại vua Am-môn, và nói: “Giép-thê nói như vầy: Y-sơ-ra-ên không có lấy đất của Mô-áp hoặc đất của dân Am-môn. Nhưng khi họ ra khỏi Ai-cập, họ đi qua đồng vắng để đến Hồng Hải, rồi tiếp tục đến Ca-đê. Khi ấy Y-sơ-ra-ên có sai các sứ giả đến thưa với vua của Ê-đôm rằng: ‘Xin cho phép chúng tôi đi ngang qua xứ của vua.’ Nhưng vua Ê-đôm không chấp thuận. Họ bèn sai các sứ giả đến với vua Mô-áp, nhưng vua ấy cũng chối từ. Vậy dân Y-sơ-ra-ên phải ở lại Ca-đê. Sau đó, Y-sơ-ra-ên phải đi vào trong sa mạc, đi vòng bên ngoài lãnh thổ của Ê-đôm và Mô-áp, rồi đi dọc theo biên giới phía đông của nước Mô-áp, và hạ trại phía bên kia của Ạt-nôn. Họ không vào lãnh thổ của Mô-áp, vì Ạt-nôn là ranh giới của Mô-áp. Kế đó, Y-sơ-ra-ên sai các sứ giả đến Si-hôn, là vua A-mô-rít, đang trị vì tại Hết-bôn, và tâu rằng: ‘Xin cho phép chúng tôi đi ngang qua nước của vua để vào xứ của chúng tôi.’ ” Tuy nhiên, Si-hôn không tin tưởng dân Y-sơ-ra-ên, nên không cho họ đi ngang qua nước mình. Đã thế vua còn triệu tập tất cả quân đội mình đến hạ trại tại Gia-hát để đánh Y-sơ-ra-ên. Bấy giờ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phó Si-hôn và tất cả quân đội của vua ấy vào tay Y-sơ-ra-ên. Y-sơ-ra-ên đánh bại họ và chiếm toàn xứ của dân A-mô-rít đang sống. Họ tiếp thu cả xứ, từ Ạt-nôn cho đến Gia-bốc, từ trong sa mạc cho đến sông Giô-đanh. Vậy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã đuổi dân A-mô-rít đi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài rồi, thì bây giờ vua lấy quyền gì mà đòi những đất ấy lại? Vua há chẳng nhận lấy những gì mà Kê-mốt, là thần của vua, ban cho vua sao? Cũng vậy, những gì mà CHÚA, là Thần của chúng tôi ban cho chúng tôi thì chúng tôi giữ lấy. Vua há có giỏi hơn Ba-lác, con trai Xếp-bô, là vua của Mô-áp chăng? Vua ấy có bao giờ dám tranh chấp hay chống chọi với Y-sơ-ra-ên chăng? Trong ba trăm năm, Y-sơ-ra-ên chiếm lấy Hết-bôn và những vùng phụ cận nó, A-rô-e và những vùng phụ cận nó, và tất cả các thành dọc theo Ạt-nôn, tại sao trong khoảng thời gian đó vua không lấy lại đi? Tôi không có làm gì sai với vua đâu, nhưng vua có làm sai với tôi đó, vì vua gây chiến chống tôi. Cầu xin CHÚA, là Đấng Phán Xét, xét xử sự tranh tụng giữa dân Y-sơ-ra-ên và dân Am-môn. Tuy nhiên, vua của Am-môn không thèm để ý đến những lời của Giép-thê sai trình tâu với vua. Bấy giờ Thần của CHÚA cảm động Giép-thê. Ông băng qua Ga-la-át và Ma-na-se, rồi vượt qua Mích-ba ở Ga-la-át, và từ đó ông tiến đánh dân Am-môn. Giép-thê khấn nguyện với CHÚA rằng: “Nếu CHÚA phó dân Am-môn vào tay con, thì khi con chiến thắng dân Am-môn trở về, bất cứ sinh vật nào từ cửa nhà con đi ra đón con, thì sinh vật ấy sẽ thuộc về CHÚA, con sẽ dâng nó làm tế lễ thiêu cho CHÚA.” Rồi Giép-thê tiến đánh dân Am-môn, và CHÚA phó chúng vào tay ông. Ông đánh hạ hai mươi thành của chúng, từ A-rô-e cho đến vùng phụ cận của Min-nít, kéo dài đến A-bên Kê-ra-mim. Ấy là một cuộc bại trận rất lớn. Như thế, dân Am-môn bị khuất phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên. Khi Giép-thê trở về nhà ông tại Mích-ba; kìa, con gái của ông cầm trống con đi ra nhảy múa đón mừng ông. Nàng lại là đứa con một. Ngoài nàng ra Giép-thê không có con trai hay con gái nào khác. Khi Giép-thê thấy nàng, thì ông xé áo ông và khóc: “Ôi, con của cha ơi, con làm cho cha đau khổ và khó xử biết bao; bởi vì cha có khấn nguyện với CHÚA, và cha không thể nuốt lời được.” Nàng đáp: “Thưa cha, nếu cha đã có lời khấn nguyện với CHÚA, xin cha hãy làm cho con y như những lời cha đã khấn hứa. Vì bây giờ CHÚA đã báo trả những kẻ thù nghịch của cha là dân Am-môn rồi.” Đoạn, nàng nói với ông: “Nhưng xin cha cho con xin điều này. Xin cha cho con hai tháng để con rong chơi trên núi rừng và để con cùng với bạn bè con khóc cho sự đồng trinh của con.” Ông đáp: “Con cứ đi.” Rồi ông để cho nàng đi hai tháng. Nàng và các bạn nàng lên núi và khóc cho sự đồng trinh của nàng. Sau hai tháng, nàng trở về với cha nàng, và ông đã làm cho nàng như lời ông đã khấn nguyện. Nàng chẳng hề biết một người nam nào. Kể từ đó, trong Y-sơ-ra-ên có tục lệ, hằng năm các thiếu nữ trong Y-sơ-ra-ên dành bốn ngày để đi than khóc con gái của Giép-thê, người Ga-la-át. Giép-thê Và Ép-ra-im Người Ép-ra-im hiệp nhau lại, và vượt qua Xa-phôn, rồi sai người đến nói với Giép-thê: “Tại sao ông đi đánh dân Am-môn mà không gọi chúng tôi đi với ông? Chúng tôi sẽ đến đốt nhà ông và thiêu sống ông luôn.” Giép-thê đáp lời họ: “Tôi và dân tôi có cuộc tranh chấp rất lớn với dân Am-môn, và dầu tôi đã kêu cứu với anh em, nhưng anh em chẳng đến tiếp cứu chúng tôi khỏi tay chúng. Khi tôi thấy anh em không đến giúp đỡ, thì tôi đã liều mạng vượt qua tấn công dân Am-môn, và CHÚA đã phó chúng vào tay tôi. Vậy thì tại sao ngày nay anh em lại đến đánh tôi?” Giép-thê liền triệu tập người Ga-la-át để đánh lại người Ép-ra-im. Người Ga-la-át đánh bại người Ép-ra-im, bởi vì người Ép-ra-im có nói: “Bọn Ga-la-át các ngươi chỉ là thứ trốn chui trốn nhủi giữa Ép-ra-im và Ma-na-se thôi.” Người Ga-la-át chiếm giữ những chỗ cạn lội qua sông Giô-đanh để trở về Ép-ra-im, rồi khi có người Ép-ra-im sống sót nào đến nói: “Hãy cho tôi qua sông,” thì người Ga-la-át hỏi: “Ngươi có phải là người Ép-ra-im không?” Nếu người ấy bảo: “Không,” thì họ liền bảo người ấy: “Hãy nói: ‘Si-bô-lết,’ ” mà người ấy nói: “Xi-bô-lết,” vì người ấy không thể phát âm chính xác được, thì họ liền bắt người ấy và giết ngay tại chỗ cạn lội qua sông Giô-đanh. Vào thời ấy, đã có bốn mươi hai ngàn người Ép-ra-im bị giết chết. Giép-thê làm thẩm phán trên Y-sơ-ra-ên được sáu năm. Rồi Giép-thê, người Ga-la-át qua đời, và được chôn trong một thành ở Ga-la-át. Íp-san, Ê-lơn, Và Áp-đôn Sau ông, có Íp-san, người Bết-lê-hem xử đoán trong Y-sơ-ra-ên. Ông có ba mươi con trai và ba mươi con gái. Ông gả các con gái cho người ngoài dòng họ, và cưới ba mươi cô gái ngoài dòng họ làm vợ cho các con trai ông. Íp-san xử đoán trong Y-sơ-ra-ên được bảy năm Rồi Íp-san qua đời và được chôn tại Bết-lê-hem. Sau ông, có Ê-lơn, người Sa-bu-luân, xử đoán trong Y-sơ-ra-ên mười năm. Rồi Ê-lơn, người Sa-bu-luân, qua đời và được chôn ở A-gia-lôn, trong đất của bộ tộc Sa-bu-luân. Sau ông, có Áp-đôn, con trai Hi-lên, người Phi-ra-thôn xử đoán trong Y-sơ-ra-ên. Ông có bốn mươi con trai và ba mươi cháu trai. Họ cỡi bảy mươi con lừa. Ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên được tám năm. Rồi Áp-đôn, con trai Hi-lên, qua đời và được chôn ở Phi-ra-thôn, trong đất của bộ tộc Ép-ra-im, trong miền cao nguyên của dân A-ma-léc. Sam-sôn Ra Đời Dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác trước mặt CHÚA, vậy CHÚA phó họ vào tay dân Phi-li-tin trong bốn mươi năm. Có một người ở Xô-ra, tên là Ma-nô-a, thuộc bộ tộc Đan; vợ ông son sẻ, không con. Thiên sứ của CHÚA hiện ra cùng nàng và bảo: “Này, ngươi vốn son sẻ, không con, nhưng ngươi sẽ có thai và sinh một con trai. Vậy từ nay ngươi chớ uống rượu hay bất cứ thức uống gì có men, ngươi cũng đừng ăn vật gì không thanh sạch, vì ngươi sẽ thụ thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không qua đầu nó, vì đứa trẻ sẽ thành một người Na-xi-rê, biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời từ lúc sinh ra, và nó sẽ giải cứu Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay dân Phi-li-tin.” Nàng đi thuật lại cho chồng nàng và nói: “Một người của Đức Chúa Trời có đến gặp em. Diện mạo người ấy giống như thiên sứ của Đức Chúa Trời, rất đáng kinh sợ. Em không dám hỏi người ấy từ đâu đến, và người ấy cũng không nói cho em biết tên. Nhưng người ấy bảo em rằng: ‘Ngươi sẽ có thai và sinh một con trai. Vậy từ nay ngươi không được uống rượu hay uống bất cứ thức gì có men, và cũng không được ăn những vật không thanh sạch, vì đứa trẻ ấy sẽ thành người Na-xi-rê của Đức Chúa Trời từ lúc sinh ra cho đến khi qua đời.’ ” Ma-nô-a bèn cầu nguyện với CHÚA: “Lạy CHÚA, con cầu xin Ngài, xin CHÚA sai người của Đức Chúa Trời đến với chúng con một lần nữa, để dạy chúng con biết cách nuôi dưỡng đứa bé sắp sinh như thế nào.” Đức Chúa Trời nghe lời cầu nguyện của Ma-nô-a, và thiên sứ của CHÚA trở lại gặp người nữ khi nàng đang ở ngoài đồng; khi ấy Ma-nô-a chồng nàng không có ở đó. Nàng liền vội vàng chạy đi báo tin cho chồng rằng: “Người ấy đang ở đây! Người đã hiện ra với em hôm trước đó!” Ma-nô-a chỗi dậy và đi theo vợ. Khi gặp người ấy, Ma-nô-a hỏi: “Thưa có phải ngài là người đã nói chuyện với vợ tôi không?” Người đáp: “Chính ta.” Vậy Ma-nô-a hỏi người: “Khi lời của ngài được ứng nghiệm, thì đứa trẻ phải giữ những quy luật gì trong đời sống và trong việc làm?” Thiên sứ của CHÚA phán: “Vợ ngươi phải làm tất cả những gì ta đã bảo nàng. Nàng không được ăn bất cứ thức gì ra từ vườn nho, không được uống rượu, hay thức chi có men, cũng không được ăn vật chi không thanh sạch. Nàng phải làm tất cả những gì ta đã bảo nàng.” Ma-nô-a thưa với thiên sứ của CHÚA: “Xin mời ngài ở nán lại để chúng tôi được dâng cho ngài một con dê con.” Thiên sứ của CHÚA đáp: “Dầu ngươi có cầm ta lại, ta cũng không ăn bất cứ thức ăn nào của ngươi đâu. Nhưng nếu ngươi muốn dâng một tế lễ thiêu. Hãy dâng nó lên cho CHÚA.” Ma-nô-a không biết rằng đấng ông đang nói chuyện là thiên sứ của CHÚA. Đoạn Ma-nô-a hỏi thiên sứ của CHÚA: “Danh ngài là chi để chúng tôi biết mà tôn kính khi lời của ngài được ứng nghiệm?” Người đáp: “Tại sao ngươi hỏi danh ta? Danh ta quá sức hiểu biết của ngươi.” Rồi Ma-nô-a bắt một con dê tơ, cùng tế lễ chay, đem để trên một tảng đá, dâng lên cho CHÚA. Và CHÚA đã làm một việc rất lạ lùng trước sự chứng kiến của Ma-nô-a và vợ ông: Đang khi ngọn lửa từ bàn thờ bốc lên trời, thì thiên sứ của CHÚA cũng thăng thiên theo ngọn lửa. Thấy vậy, Ma-nô-a và vợ ông liền sấp mặt xuống đất. Khi thấy thiên sứ của CHÚA không tái hiện nữa, Ma-nô-a nhận biết rằng ấy thật là thiên sứ của CHÚA. Ma-nô-a nói với vợ: “Chắc vợ chồng chúng ta phải chết rồi. Vì chúng ta đã thấy Đức Chúa Trời.” Nhưng vợ ông nói: “Nếu CHÚA muốn giết chúng ta, thì Ngài đã không nhậm tế lễ thiêu và tế lễ chay từ tay chúng ta dâng, và Ngài cũng không bảo chúng ta tất cả những điều này như chúng ta đã được nghe bảo hôm nay.” Nàng sinh một con trai và đặt tên là Sam-sôn. Đứa trẻ lớn lên và CHÚA ban phước cho. Thần của CHÚA bắt đầu tác động trên Sam-sôn khi ông đang ở Ma-ha-ne thuộc Đan, khoảng giữa Xô-ra và Ê-ta-ôn. Sam-sôn Cưới Vợ Sam-sôn đi xuống Thim-na và thấy một thiếu nữ Phi-li-tin ở đó. Khi trở về nhà, ông thưa với cha mẹ: “Con có thấy một thiếu nữ Phi-li-tin ở Thim-na, bây giờ xin cha mẹ cưới cô ấy làm vợ cho con.” Cha mẹ ông đáp: “Trong vòng bà con chúng ta hay trong vòng dân tộc chúng ta không có một người nữ nào con có thể lấy làm vợ hay sao, mà con phải đi cưới một người nữ trong dân Phi-li-tin không cắt bì làm vợ?” Nhưng Sam-sôn nói với cha: “Xin cha cưới cô ấy cho con. Vì cô ấy hợp mắt con.” Cha mẹ ông không biết rằng việc ấy đến từ CHÚA. Ngài tạo cơ hội để ông đối đầu với dân Phi-li-tin; vì lúc ấy người Phi-li-tin đang cai trị trên Y-sơ-ra-ên. Sam-sôn với cha mẹ ông đi xuống Thim-na. Khi họ vừa đến khu các vườn nho ở Thim-na, thì kìa, một con sư tử tơ gầm lên và chạy tới vồ Sam-sôn. Thần của CHÚA ngự xuống trên ông một cách mạnh mẽ nên ông dùng hai tay không xé con sư tử ra như thể xé một con dê con vậy. Nhưng ông không nói cho cha mẹ ông biết chuyện ông đã làm. Rồi ông đi xuống, nói chuyện với cô thiếu nữ, và cô ấy hợp mắt Sam-sôn. Cách ít lâu, Sam-sôn trở lại cưới cô gái. Ông đi rẽ qua xem thử xác con sư tử hôm trước đã ra sao. Và kìa, trong xác khô của nó có một tổ ong đầy mật. Ông giơ tay lấy vỉ mật vừa đi vừa ăn. Ông cũng đem mời cha mẹ ông ăn nữa, và họ cùng ăn, nhưng ông không nói cho họ biết mật ấy đã lấy ra từ xác sư tử. Bấy giờ cha của Sam-sôn xuống lo lễ cưới cô thiếu nữ đó cho Sam-sôn. Sam-sôn tổ chức một bữa tiệc để thết đãi theo như phong tục của các chàng rể thời ấy. Khi thấy ông, họ giới thiệu cho ông ba mươi thanh niên để làm bạn. Sam-sôn nói với họ: “Xin cho tôi đố anh em một câu đố, và nếu trong vòng bảy ngày của tiệc cưới, anh em trả lời được, thì tôi sẽ cho anh em ba mươi chiếc áo vải gai và ba mươi bộ y phục. Còn nếu anh em không thể giải được câu đố thì anh em phải cho tôi ba mươi chiếc áo vải gai và ba mươi bộ y phục.” Họ đáp: “Anh hãy ra câu đố đi. Chúng tôi nghe đây.” Ông nói: “Từ vật ăn lấy ra được món ăn, Từ kẻ mạnh lấy ra được món ngọt.” Ba ngày trôi qua mà họ vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp. Đến ngày thứ tư, họ đến nói với vợ Sam-sôn: “Cô phải dụ chồng cô giải đáp câu đố cho chúng tôi, nếu không chúng tôi sẽ đốt nhà cô, thiêu sống cô và cả nhà cha cô trong đó. Bộ các người tính mời chúng tôi đến đây để bóc lột chúng tôi hả?” Thế là vợ Sam-sôn đến khóc lóc với ông: “Anh ghét em, chứ anh có thương em gì đâu. Anh ra một câu đố cho dân tộc em mà anh không cho em biết câu giải đáp.” Ông đáp: “Ngay cả cha mẹ anh mà anh còn không cho biết, thì tại sao anh phải nói cho em?” Từ hôm đó cho đến ngày thứ bảy của tiệc cưới, nàng cứ thút thít khóc lóc mãi. Cho nên đến ngày thứ bảy, ông chịu không nổi mà phải giải nghĩa câu đố cho nàng; bởi vì nàng cứ liên tục làm áp lực với ông mãi. Nàng liền nói lại cho dân tộc nàng biết câu giải đáp. Trước lúc mặt trời lặn của ngày thứ bảy các thanh niên trong thành đến nói với ông: “Có gì ngọt hơn mật ong? Có gì mạnh hơn sư tử?” Sam-sôn nói với họ: “Nếu anh em không cày bằng bò cái tơ của tôi, Thì làm sao anh em có thể giải được câu đố của tôi.” Thần của CHÚA ngự xuống trên ông mạnh mẽ. Ông đi xuống Ách-ca-lôn giết ba mươi người Phi-li-tin, lột lấy quần áo của họ và thưởng cho những người giải đáp được câu đố. Rồi ông nổi giận phừng phừng và bỏ về nhà của cha ông. Còn vợ của Sam-sôn thì bị bắt gả cho một thanh niên trong đám bạn đã đến dự tiệc cưới của ông. Sam-sôn Báo Thù Dân Phi-li-tin Sau đó, đến mùa gặt lúa, Sam-sôn dắt một con dê con làm quà xuống thăm vợ. Ông nói: “Xin cho con vào gặp vợ con trong phòng nàng.” Nhưng cha nàng không cho ông vào. Ông ấy bảo: “Tôi tưởng là cậu ghét nó lắm, nên tôi đã gả nó cho bạn cậu rồi. Em gái nó há chẳng xinh đẹp hơn nó sao? Cậu hãy lấy cô em thế đi.” Sam-sôn nói với họ: “Nếu lần này tôi có làm gì hại người Phi-li-tin thì tôi cũng vô tội thôi.” Vậy Sam-sôn đi ra, bắt ba trăm con chồn, cột đuôi chúng thành từng cặp; rồi buộc một bó đuốc vào mỗi cặp đuôi. Ông đốt đuốc và thả chúng chạy vào đồng ruộng của người Phi-li-tin. Vậy ông thiêu rụi cả lúa đã bó, lẫn lúa chưa gặt, các vườn nho, luôn với các rẫy ô-liu. Người Phi-li-tin liền hỏi: “Ai đã làm như thế?” Người ta trả lời: “Sam-sôn, rễ của một người ở Thim-na. Vì người ấy đem vợ hắn gả cho một người bạn của hắn.” Thế là người Phi-li-tin đi lên, bắt nàng và cha nàng và đem thiêu sống. Sam-sôn nói với họ: “Vì các ngươi đã làm thế, thì ta cũng sẽ không ngừng cho đến khi ta báo được thù xong.” Ông bèn xông vào họ và đánh giết nhiều người. Xong rồi ông đi xuống một hang đá ở Ê-tam mà trú ẩn. Dân Phi-li-tin kéo lên, hạ trại ở Giu-đa, và tràn đến Lê-chi. Người Giu-đa hỏi: “Tại sao các người lên đánh chúng tôi?” Họ đáp: “Chúng tôi lên đây để bắt Sam-sôn. Chúng tôi phải làm cho hắn như hắn đã làm cho chúng tôi.” Đoạn, ba ngàn người Giu-đa đi xuống hang đá ở Ê-tam và nói với Sam-sôn: “Anh không biết là người Phi-li-tin đang cai trị chúng ta sao? Tại sao anh lại gây liên lụy cho chúng tôi như thế này?” Ông trả lời: “Tôi chỉ làm cho chúng những gì chúng đã làm cho tôi thôi.” Họ nói với ông: “Chúng tôi đến để xin trói anh và nộp anh cho người Phi-li-tin đây.” Sam-sôn đáp: “Xin hãy thề với tôi là chính anh em sẽ không giết tôi.” Họ đáp: “Chúng tôi đồng ý. Chúng tôi chỉ muốn trói anh và nộp anh cho người Phi-li-tin thôi, chứ chúng tôi không muốn giết anh đâu.” Vậy họ lấy hai sợi dây thừng mới trói Sam-sôn lại và dẫn ông lên khỏi hang đá. Khi ông đến gần Lê-chi, dân Phi-li-tin đổ xô ra reo hò. Thần của CHÚA ngự xuống trên ông mạnh mẽ. Những sợi dây thừng trói tay ông trở nên như những sợi chỉ gai bị lửa đốt; chúng tàn rụi khỏi tay ông. Thấy một cái xương hàm lừa còn mới, ông lượm lên và dùng nó đánh giết một ngàn người Phi-li-tin. Đoạn ông nói: “Với một chiếc hàm lừa, Ta đã chất thây thành đống; Với một chiếc hàm lừa, Ta đã giết một ngàn người.” Nói xong, ông vứt chiếc hàm lừa đi; và người ta đã gọi nơi đó là “Đồi Hàm Lừa.” Rồi Sam-sôn cảm thấy khát nước quá đỗi. Ông kêu cầu với CHÚA rằng, “CHÚA đã cho tôi tớ CHÚA được chiến thắng lớn như thế này, lẽ nào giờ đây con phải chết khát và sa vào tay những kẻ không cắt bì sao?” Đức Chúa Trời bèn khiến một bộng đá ở Lê-chi nứt ra, nước từ đó tuôn ra. Sam-sôn đến uống, sức lực được phục hồi và tinh thần được phấn khởi trở lại. Bởi thế người ta đặt tên suối nước đó là “Suối Nước Cầu Xin” và con suối ấy vẫn còn tại Lê-chi cho đến ngày nay. Sam-sôn xử đoán trong Y-sơ-ra-ên hai mươi năm, trong thời dân Phi-li-tin cường thịnh. Sam-sôn Và Đa-li-la Một ngày nọ, Sam-sôn đến Ga-xa và thấy một gái điếm tại đó. Ông vào nhà nàng và ngủ đêm với nàng. Người trong thành Ga-xa báo cho nhau rằng: “Sam-sôn đã đến đây!” Thế là họ vây phục chỗ ông ở và nằm đợi thâu đêm ở cổng thành. Suốt đêm họ không động tĩnh, vì nói rằng: “Hãy đợi đến sáng, chúng ta sẽ giết nó.” Nhưng Sam-sôn nằm đó cho đến nửa đêm. Ông thức dậy, nắm hai cánh cổng thành, cùng với hai trụ cổng, mà giựt tung nó ra, luôn cả then cài; rồi ông vác chúng trên vai, đem lên đỉnh đồi, đối diện Hếp-rôn. Sau đó ít lâu, ông yêu mến một cô gái trong Thung Lũng Sô-réc, tên là Đa-li-la. Các thủ lãnh của Phi-li-tin đến gặp nàng và bảo: “Cô hãy cố dụ hắn nói cho cô bí mật của sức mạnh phi thường hắn có và cách nào để thắng hơn hắn, hầu chúng tôi có thể bắt trói hắn lại và chế ngự hắn. Rồi mỗi người chúng tôi sẽ thưởng cho cô một ngàn một trăm sê-ken16:5 12,540g bạc.” Vậy Đa-li-la nói với Sam-sôn: “Anh hãy nói cho em biết do đâu mà anh có sức mạnh phi thường như thế và làm cách nào để trói anh lại và chế ngự được anh đi.” Sam-sôn trả lời nàng: “Nếu có ai trói anh bằng bảy sợi dây cung tươi, chưa khô, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Các lãnh tụ Phi-li-tin liền mang cho nàng bảy sợi dây cung tươi, chưa khô, rồi nàng dùng chúng trói ông lại. Sau khi cho người mai phục trong phòng, nàng gọi ông, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Nhưng ông bứt đứt các dây cung dễ dàng như người ta đưa những sợi chỉ vào ngọn lửa. Vậy người ta không biết bí mật của sức mạnh ông đến từ đâu. Đa-li-la bèn nói với ông: “Anh đánh lừa em. Anh dối gạt em. Bây giờ anh hãy nói cho em biết làm sao trói được anh đi.” Ông nói: “Nếu có ai trói anh thật chặt bằng những dây thừng còn mới, chưa dùng lần nào, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Vậy Đa-li-la lấy những dây thừng mới và trói ông lại. Sau khi cho người mai phục sẵn trong phòng, nàng gọi: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Nhưng ông bứt đứt các dây thừng khỏi tay ông như bứt chỉ. Đa-li-la bèn nói với ông: “Cho đến giờ phút này anh vẫn còn gạt em, anh nói dối với em. Nói cho em biết làm sao trói anh lại được đi.” Ông đáp: “Nếu em dệt bảy lọn tóc của anh vào khung cửi, rồi lấy ghim gài chặt chúng vào, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Vậy Đa-li-la đợi cho Sam-sôn ngủ rồi lấy bảy lọn tóc của Sam-sôn dệt vào khung cửi, và lấy ghim gài chặt lại. Xong nàng gọi: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Ông thức giấc, bứt đứt cả ghim cài và khung cửi. Bấy giờ Đa-li-la nói với ông: “Làm sao anh có thể nói được rằng: ‘Anh yêu em,’ trong khi anh không thật lòng với em. Đây là lần thứ ba anh đã gạt em và không nói cho em biết do đâu mà anh có sức mạnh phi thường như vậy.” Cứ như thế mà ngày nào nàng cũng trách móc giận hờn, khiến cho ông bực bội thiếu điều muốn chết. Ông bèn khai thật với nàng tất cả. Ông nói: “Dao cạo chưa hề đưa qua đầu anh bao giờ, bởi vì anh là người Na-xi-rê của Đức Chúa Trời từ khi còn trong lòng mẹ. Nếu tóc anh bị cạo đi, thì sức mạnh trong anh cũng sẽ biến mất, và anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Khi Đa-li-la thấy rằng ông đã khai thật với nàng mọi sự, nàng liền cho người đến báo với các lãnh tụ của dân Phi-li-tin rằng: “Hãy trở lại một lần nữa. Hắn đã khai thật với tôi tất cả rồi.” Vậy các lãnh tụ của dân Phi-li-tin trở lại, đem bạc theo trong tay. Nàng dỗ Sam-sôn ngủ trên đùi nàng, rồi nàng sai người cạo sạch bảy lọn tóc trên đầu ông, và như thế nàng chế ngự được ông; sức lực ông đã lìa khỏi ông. Xong nàng nói: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Ông thức dậy và thầm nghĩ: “Ta sẽ thoát khỏi như những lần trước và ta sẽ gỡ mình ra.” Nhưng ông không biết rằng CHÚA đã lìa khỏi ông. Dân Phi-li-tin bắt ông, móc hai mắt ông, và đem ông xuống Ga-xa. Chúng xiềng ông bằng những sợi xích đồng, và bắt ông xay cối trong ngục. Nhưng tóc của ông sau khi bị cạo đã bắt đầu mọc lại. Sam-sôn Qua Đời Các lãnh tụ của dân Phi-li-tin họp lại để dâng một tế lễ trọng thể cho Đa-gôn, thần của họ, và để liên hoan, vì họ nói rằng: “Thần của chúng ta đã phó kẻ thù của chúng ta là Sam-sôn vào tay chúng ta.” Khi dân Phi-li-tin thấy Sam-sôn, họ ca tụng thần của họ rằng: “Thần của chúng ta đã phó kẻ thù của chúng ta Vào tay chúng ta; Ấy là kẻ đã phá hoại xứ sở chúng ta Và đã giết hại nhiều người.” Rồi khi hứng chí, họ gào vang: “Hãy đem Sam-sôn ra đây, để hắn giúp vui cho chúng ta.” Vậy họ dẫn Sam-sôn ra khỏi ngục để ông làm trò cho họ. Họ để ông đứng giữa các trụ cột. Sam-sôn nói với người hầu trẻ đang dắt tay ông rằng: “Hãy dẫn ta lại hàng trụ cột chống đỡ ngôi đền để ta có thể dựa vào đó.” Khi ấy trong đền có rất đông người, cả nam lẫn nữ; tất cả lãnh tụ của dân Phi-li-tin đều ở đó, và trên sân thượng của đền có khoảng ba ngàn người, cả nam lẫn nữ, chờ xem Sam-sôn làm trò. Sam-sôn cầu nguyện với CHÚA rằng: “Lạy CHÚA, xin Ngài nhớ đến con. Đức Chúa Trời ôi, xin cho con có sức mạnh chỉ một lần nữa thôi, để con báo thù dân Phi-li-tin vì đôi mắt của con.” Rồi Sam-sôn với tay vịn vào hai cây trụ chính chống đỡ cả ngôi đền. Ông lấy thế bằng cách vịn một tay vào cây bên phải và một tay vào cây bên trái. Đoạn Sam-sôn nói: “Nguyện tôi bị chết chung với dân Phi-li-tin.” Rồi ông lấy hết sức đẩy hai cây trụ ra, và ngôi đền sụp đổ trên các lãnh tụ và dân chúng đang ở trong đó. Ấy vậy, lúc chết Sam-sôn giết nhiều người hơn khi còn sống. Kế đó, các em trai ông và toàn gia đình của cha ông xuống lấy xác của ông về. Họ đem thi thể ông về chôn trong mộ của Ma-nô-a, cha ông, khoảng giữa Xô-ra và Ê-ta-ôn. Sam-sôn xử đoán trong Y-sơ-ra-ên được hai mươi năm. Hình Tượng Của Mi-ca Bấy giờ có một người trong vùng cao nguyên của Ép-ra-im tên là Mi-ca. Người ấy nói với mẹ ông rằng: “Một ngàn một trăm sê-ken bạc17:2 12,540kg của mẹ đã bị mất và mẹ nguyền rủa kẻ nào đã lấy bạc đó như thế nào con đều nghe cả. Số bạc ấy hiện đang ở trong tay con. Chính con đã lấy nó.” Người mẹ đáp: “Nguyện CHÚA ban phước cho con, con trai của mẹ.” Khi Mi-ca trả một ngàn một trăm sê-ken bạc lại cho mẹ của ông, bà nói: “Mẹ quyết định biệt riêng số bạc này ra thánh cho CHÚA, trên danh nghĩa của con, để khắc một hình tượng và đúc một pho tượng. Coi như mẹ trao nó lại cho con.” Vậy Mi-ca trả bạc lại cho mẹ của ông. Bà bèn lấy hai trăm sê-ken bạc17:4 228g giao cho người thợ bạc; người ấy đem chế thành một hình tượng và đúc ra một pho tượng, rồi người ta đem để chúng trong nhà của Mi-ca. Ông Mi-ca này cũng dựng một cái miếu thờ, làm một cái ê-phót và một số tượng thần, rồi lập một con trai của ông lên làm thầy tế lễ. Vả lúc ấy trong Y-sơ-ra-ên không có vua, ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải. Có một thanh niên Lê-vi, quê ở Bết-lê-hem trong miền Giu-đa. Thanh niên này sinh trưởng và lớn lên ở Giu-đa. Nhưng chàng rời bỏ Bết-lê-hem trong miền Giu-đa để đi tìm một nơi lập nghiệp. Trên đường đi chàng ghé đến nhà của Mi-ca ở cao nguyên Ép-ra-im. Mi-ca hỏi chàng: “Anh từ đâu đến?” Người ấy đáp: “Tôi là người Lê-vi quê ở Bết-lê-hem trong miền Giu-đa, và tôi đang đi kiếm một nơi để lập nghiệp.” Mi-ca nói: “Nếu vậy mời anh ở lại đây với tôi, làm cha tôi và làm thầy tế lễ của tôi. Tôi sẽ trả cho anh mười sê-ken bạc17:10 114g một năm, còn y phục và thực phẩm, tôi sẽ cung cấp cho anh đầy đủ.” Vậy người Lê-vi bằng lòng ở lại với Mi-ca, và Mi-ca xem chàng như một con trai của ông. Rồi Mi-ca lập chàng thanh niên Lê-vi ấy làm thầy tế lễ cho mình, và người ấy sống trong nhà của Mi-ca. Xong rồi Mi-ca nói: “Bây giờ ta biết CHÚA sẽ ban phước cho ta, vì người Lê-vi này đã thành thầy tế lễ của ta.” Người Đan Cướp Hình Tượng Và Định Cư Ở La-ít Trong lúc đó Y-sơ-ra-ên không có vua. Và trong lúc đó bộ tộc Đan đang tìm kiếm một nơi để định cư, bởi vì đối với các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên thì họ chưa nhận được sản nghiệp. Vậy người Đan ở Xô-ra và Ê-ta-ôn sai năm dũng sĩ đi do thám và thăm dò xứ. Những người này đại diện cho các tộc họ trong cả bộ tộc. Người Đan bảo họ: “Hãy đi thăm dò xứ.” Những người này đến vùng cao nguyên Ép-ra-im và vào nhà của Mi-ca, để nghỉ đêm tại đó. Đang khi họ ở gần nhà Mi-ca thì nghe giọng nói của chàng thanh niên Lê-vi. Họ bèn đến đó và hỏi chàng: “Ai dẫn anh đến đây? Anh làm gì ở đây? Tại sao anh ở đây?” Chàng nói cho họ biết Mi-ca đã đối với chàng như thế nọ thế kia, và nói tiếp: “Mi-ca đã mướn tôi làm thầy tế lễ cho ông ấy.” Họ liền hỏi anh: “Xin anh hãy cầu vấn Đức Chúa Trời xem chúng tôi đi chuyến này có thành công chăng?” Thầy tế lễ đáp: “Hãy đi bình an. Mắt CHÚA đoái xem chuyến đi này của quý ông.” Vậy năm người ấy lên đường đến La-ít; tại đó họ thấy dân tình sống an lành, như dân Si-đôn, bình lặng, không phòng bị gì cả; xứ ấy không thiếu món gì và rất trù phú. Hơn nữa, họ sống xa cách với dân Si-đôn và cũng không có liên hệ gì với ai. Khi họ trở về lại Xô-ra và Ê-ta-ôn, thì anh em của họ hỏi: “Các ngươi thăm dò thấy thế nào?” Họ đáp: “Chúng ta hãy đến tấn công họ. Chúng tôi đã thấy xứ ấy rồi, quả là một xứ thật tốt. Bộ anh em không tính làm gì sao? Đừng ngần ngại đến đó và chiếm lấy xứ. Khi anh em đến đó, anh em sẽ thấy một dân không phòng bị gì cả, và xứ thì rộng rãi, Đức Chúa Trời quả sẽ ban nó vào tay chúng ta. Thật là một xứ chẳng thiếu món gì trên đất.” Bấy giờ sáu trăm người Đan, trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, từ Xô-ra và Ê-ta-ôn ra đi. Dọc đường họ đóng trại tại Ki-ri-át Giê-a-rim trong miền Giu-đa. Đó là lý do tại sao người ta gọi phía tây của Ki-ri-át Giê-a-rim là “Trại của Đan” cho đến ngày nay. Từ đó họ tiến đến cao nguyên Ép-ra-im, rồi đến nhà của Mi-ca. Năm người đã đi do thám xứ nói với các anh em của họ: “Anh em có biết rằng trong mấy căn nhà này có một cái ê-phót, một số tượng gia thần, một hình tượng và một pho tượng không? Bây giờ anh em biết làm gì rồi phải không?” Vậy họ đến đó và vào nhà của chàng thanh niên Lê-vi, tức là nhà của Mi-ca và chào chàng. Sáu trăm người Đan, trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, đứng ở ngoài cổng. Năm người đã đi do thám xứ vào trong lấy hình tượng, cái ê-phót, những tượng gia thần, và một pho tượng, trong khi thầy tế lễ và sáu trăm người trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, đứng ở ngoài cổng. Khi những người ấy vào trong nhà Mi-ca lấy hình tượng, cái ê-phót, những tượng gia thần, và một pho tượng, thì thầy tế lễ hỏi họ: “Các ông tính làm gì vậy?” Họ bảo chàng: “Hãy im lặng! Xin lấy tay bịt miệng lại. Hãy theo chúng tôi, làm cha và làm thầy tế lễ của chúng tôi. Làm thầy tế lễ cho một bộ tộc và một tộc họ trong Y-sơ-ra-ên không tốt hơn là chỉ phục vụ cho một gia đình sao?” Thầy tế lễ liền hoan hỉ chấp nhận. Người ấy lấy cái ê-phót, các tượng gia thần, và tấm hình tượng, rồi đi theo đoàn người ấy. Người Đan sắp xếp cho các trẻ em, súc vật, và tài sản đi trước, rồi họ quay trở ra tiếp tục lên đường. Khi họ đã đi được một khoảng xa, những người trong nhà Mi-ca và xóm giềng của Mi-ca hiệp nhau lại và đuổi theo người Đan. Khi họ đến gần và kêu la đằng sau, người Đan liền quay lại và hỏi Mi-ca: “Ngươi có chuyện gì vậy? Ngươi nhóm hiệp những kẻ này đuổi theo là có ý gì?” Mi-ca đáp: “Các ngươi cướp lấy những tượng thần của ta làm nên và bắt luôn thầy tế lễ của ta nữa. Vậy mà bây giờ các người còn hỏi: ‘Ngươi có chuyện gì vậy’ sao?” Người Đan đáp với Mi-ca: “Ngươi đừng để chúng ta nghe tiếng của ngươi nữa, kẻo những kẻ nóng tính trong chúng ta tấn công ngươi, rồi ngươi và cả nhà ngươi sẽ mất mạng chăng.” Vậy người Đan tiếp tục lên đường; còn Mi-ca, khi thấy họ mạnh hơn ông, ông quay lại và trở về nhà. Rồi người Đan lấy những gì Mi-ca đã có, luôn cả thầy tế lễ của ông, và tiến đến La-ít, hãm đánh một dân sống an lành và không phòng bị. Họ dùng gươm đánh giết dân ấy và phóng hỏa đốt thành. Chẳng có ai đến tiếp cứu dân ấy, vì họ sống cách xa Si-đôn và vì họ cũng không giao thiệp với ai. Thành ấy nằm trong thung lũng gần Bết Rê-hóp. Người Đan xây lại thành và định cư ở đó. Họ đặt tên thành ấy là Đan, theo tên của con trai Y-sơ-ra-ên, tộc trưởng của họ, mặc dù thành ấy vốn được gọi là La-ít. Tại đây người Đan lập cho họ những hình tượng, rồi lập Giô-na-than, con trai của Ghẹt-sôn, cháu của Môi-se, và hậu tự ông làm thầy tế lễ cho bộ tộc Đan cho đến khi xứ bị chiếm. Họ tiếp tục thờ lạy những thần tượng do Mi-ca làm ra, trọn thời gian đền tạm của Đức Chúa Trời ở tại Si-lô. Người Lê-vi Và Cô Vợ Bé Trong lúc ấy, dân Y-sơ-ra-ên không có vua. Có một người Lê-vi sống ở một miền hẻo lánh trên cao nguyên Ép-ra-im. Người ấy có một cô vợ bé quê ở Bết-lê-hem, miền Giu-đa. Nhưng nàng lỗi đạo với chồng, rồi bỏ chồng mà trở về nhà cha nàng ở Bết-lê-hem, miền Giu-đa. Sau khi nàng về đó được bốn tháng, chồng nàng chỗi dậy, đến đó lấy lời ngọt ngào thuyết phục nàng trở về. Chồng nàng dẫn theo một đầy tớ và hai con lừa. Người phụ nữ mời chồng nàng vào nhà của cha nàng; khi cha nàng thấy con rể, ông vui mừng tiếp đón ân cần. Nhạc phụ người ấy, tức là cha người phụ nữ, nài mời con rể ở lại, nên người con rể ở lại với ông ba ngày. Họ ăn uống với nhau và nghỉ đêm tại đó. Đến ngày thứ tư, họ chỗi dậy sớm để từ giã ra đi, nhưng cha người phụ nữ nói với con rể rằng: “Hãy ăn miếng bánh cho vững bụng rồi các con hãy lên đường.” Vậy, họ ngồi lại và hai người ăn uống với nhau. Ăn xong, cha người phụ nữ nói: “Con hãy ở lại một đêm nữa đi cho lòng con được vui vẻ.” Người con rể đứng dậy toan từ giã ra về thì người cha vợ cứ nài nỉ mãi, nên ông ta đành ở lại đêm đó. Qua ngày thứ năm, ông thức dậy sớm để ra đi, nhưng cha người phụ nữ nói: “Con hãy ngồi xuống đây ăn uống cho vui vẻ đã, cứ thong thả đến chiều rồi đi cũng được.” Vậy họ ăn uống với nhau và lần lửa đến chiều. Khi ông, vợ bé ông và đầy tớ ông đứng lên để từ giã thì nhạc phụ ông nói: “Các con thấy đó, trời cũng đã về chiều rồi. Hay là các con ở lại thêm một đêm nữa đi. Thấy không, ngày đã gần tàn rồi. Thôi, hãy ở lại đây cho lòng các con được vui vẻ, rồi ngày mai hãy dậy sớm mà đi về.” Tuy nhiên, người con rể không chịu ở lại nữa, nên chỗi dậy và lên đường. Người ấy với hai con lừa mang yên và người vợ bé đi ngang qua Giê-bu19:10 Tức Giê-ru-sa-lem Khi họ đến gần Giê-bu thì ngày đã gần tàn; người đầy tớ bèn nói với chủ: “Thưa ông, chúng ta hãy rẽ vào thành của dân Giê-bu-sít này và qua đêm ở đó đi.” Nhưng người chủ nói: “Chúng ta sẽ không vào thành của dân ngoại, là những người không phải là con cái của Y-sơ-ra-ên đâu. Chúng ta sẽ ráng đến Ghi-bê-a.” Người chủ lại nói với người đầy tớ: “Cố gắng lên. Chúng ta hãy đến một trong các thành đằng trước, hoặc Ghi-bê-a hoặc Ra-ma, và qua đêm tại đó.” Rồi họ vượt qua nơi ấy và tiếp tục cuộc hành trình. Khi họ đến Ghi-bê-a, thuộc địa phận của bộ tộc Bên-gia-min thì mặt trời đã lặn. Họ bèn vào thành Ghi-bê-a và định qua đêm ở đó. Vào thành rồi, họ đến ngồi ở một nơi công cộng của thành, nhưng không ai mời họ vào nhà để qua đêm. Bấy giờ, lúc trời đã chạng vạng, có một cụ già đi làm ở ngoài đồng về. Cụ là người quê quán ở cao nguyên Ép-ra-im, nhưng bây giờ cụ sống ở Ghi-bê-a, là thành của người Bên-gia-min. Khi cụ ngước mắt lên và thấy khách lữ hành ở nơi công cộng của thành, cụ liền đến hỏi: “Ông đang trên đường về đâu? Ông từ đâu đến đây?” Lữ khách đáp: “Chúng tôi từ Bết-lê-hem miền Giu-đa đi ngang qua đây để về một miền hẻo lánh trên cao nguyên Ép-ra-im. Tôi vốn là người ở đó. Tôi đã đi Bết-lê-hem miền Giu-đa. Nay chúng tôi vào nhà của CHÚA. Nhưng không ai muốn tiếp chúng tôi vào nhà. Mặc dù chúng tôi có rơm và cỏ cho lừa, bánh và rượu cho tôi là tôi tớ cụ, cho người tớ gái này của cụ, và cho người bạn trẻ đi với chúng tôi. Chúng tôi không thiếu món gì.” Cụ già nói: “Xin các vị cứ an tâm. Những nhu cầu của các vị hãy để lão lo. Chỉ mong là các vị đừng ngủ qua đêm ngoài đường.” Vậy cụ mời họ vào nhà, và cho các lừa của khách ăn. Rồi họ rửa chân và ăn uống với nhau. Đang khi họ ăn uống vui vẻ với nhau, thình lình một đám người trong thành, là những kẻ trái thói tình dục, đến vây quanh nhà và đập cửa. Chúng nói với chủ nhà: “Hãy đem người đàn ông đã vào nhà ông ra đây, để chúng tôi ăn nằm với hắn.” Nhưng ông cụ, là chủ nhà, ra nói với chúng rằng: “Hỡi anh em! Xin đừng. Tôi năn nỉ anh em, đừng làm chuyện ác đức đó. Vì người ấy đang làm khách trong nhà tôi. Xin anh em đừng làm chuyện đồi bại ấy. Kìa, con gái của tôi vẫn còn trinh và cô vợ bé của người ấy đây. Để tôi dẫn họ ra cho anh em. Anh em muốn hãm hiếp họ hay làm gì với họ tuỳ ý, nhưng đối với người đó, xin anh em đừng làm chuyện đồi bại ấy.” Nhưng đám người đó không chịu nghe lời cụ. Vậy người khách đành phải trao cô vợ bé mình ra. Chúng hãm hiếp nàng và lăng nhục nàng thâu đêm; đến khi gần sáng chúng thả nàng ra. Khoảng rạng đông, nàng ráng sức trở về nơi chồng nàng tạm trú; về đến nơi, nàng ngã dài trước cửa và nằm đó cho đến khi trời sáng hẳn. Đến sáng, chồng nàng thức dậy, mở cửa, để chuẩn bị lên đường, thì thấy người vợ bé của mình đang nằm dài trước cửa, hai tay bíu vào ngạch cửa. Người chồng nói: “Em ráng đứng dậy, chúng ta hãy đi về.” Nhưng không có tiếng trả lời. Vậy ông bồng nàng lên, để trên lưng lừa, rồi từ giã và trở về nhà mình. Khi về đến nhà, ông lấy một con dao, cắt đứt tay chân và thi thể của vợ bé ông ra thành mười hai mảnh, rồi gởi chúng đi khắp cõi Y-sơ-ra-ên. Hết thảy những ai thấy vậy đều nói: “Từ lúc con cái Y-sơ-ra-ên lên khỏi Ai-cập cho đến nay, chưa hề có ai làm hay thấy một việc như thế bao giờ. Hãy nghĩ xem. Hãy bàn luận coi, và hãy nói ra cho biết là việc gì.” Trừng Phạt Chi Tộc Bên-gia-min Bấy giờ toàn dân Y-sơ-ra-ên từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, và luôn cả miền Ga-la-át tụ họp lại như một người trước mặt CHÚA tại Mích-ba. Những lãnh tụ của dân, tức của mười hai bộ tộc Y-sơ-ra-ên, đều hiện diện đông đủ trong đại hội của con dân Đức Chúa Trời. Có bốn trăm ngàn người mang gươm về tụ họp. Người Bên-gia-min cũng biết dân Y-sơ-ra-ên đã tụ họp tại Mích-ba. Đoạn dân Y-sơ-ra-ên nói: “Hãy nói cho chúng tôi biết việc ác này đã xảy ra làm sao.” Vậy người Lê-vi, là chồng của người phụ nữ bị giết, đáp: “Tôi và vợ bé của tôi có đến Ghi-bê-a thuộc bộ tộc Bên-gia-min để qua đêm. Ban đêm, một đám đàn ông ở Ghi-bê-a tìm đến, bao quanh nhà, tính giết tôi. Họ đã hãm hiếp vợ bé tôi, và vì thế nàng đã chết. Tôi có cắt người vợ bé tôi ra từng mảnh và gởi mỗi mảnh cho mỗi miền của cơ nghiệp Y-sơ-ra-ên. Bởi vì họ có làm điều đê tiện và ô nhục này trong Y-sơ-ra-ên. Bây giờ, hỡi tất cả Y-sơ-ra-ên, anh em hãy nói đi, chúng ta phải giải quyết việc này ra sao.” Toàn dân đều đứng dậy như một người và nói: “Không ai trong chúng ta về nhà. Không một ai trong chúng ta được đi về nhà mình cả. Nhưng đây là việc chúng ta phải làm cho Ghi-bê-a. Chúng ta sẽ bắt thăm và cứ theo đó mà lên đánh thành ấy. Trong mỗi bộ tộc của Y-sơ-ra-ên, chúng ta sẽ lấy mười người trong một trăm, trăm người trong một ngàn, ngàn người trong một vạn, để họ đi lo lương thực cho chúng ta. Khi họ trở lại, chúng ta sẽ xử Ghi-bê-a của Bên-gia-min tùy theo sự ô nhục mà thành ấy đã gây ra trong Y-sơ-ra-ên.” Vậy toàn dân Y-sơ-ra-ên hiệp nhau như một người để tiến đánh thành ấy. Các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên sai sứ giả đến khắp miền của bộ tộc Bên-gia-min nói rằng: “Tội ác kinh khủng đã phạm giữa anh em là chi? Hãy nộp cho chúng tôi những tên tội phạm ở Ghi-bê-a để chúng tôi xử tử chúng, và tẩy trừ việc ác này khỏi Y-sơ-ra-ên.” Nhưng người Bên-gia-min không chịu nghe lời yêu cầu của anh em mình, là người Y-sơ-ra-ên. Họ ra khỏi thành họ và hiệp nhau tại Ghi-bê-a để đánh lại người Y-sơ-ra-ên. Khi ấy, người Bên-gia-min động viên được hai mươi sáu ngàn người, thảy đều là những tay kiếm tài ba, từ các thành của họ kéo về. Thêm vào đó, tại Ghi-bê-a, họ cũng chọn được bảy trăm tay kiếm nữa. Trong số những người Bên-gia-min này, có bảy trăm người thuận tay trái. Mỗi người đều có tài sử dụng trành ném đá. Họ có thể ném trúng một sợi tóc mà không trật. Dân Y-sơ-ra-ên, không kể người Bên-gia-min, cũng triệu tập được bốn trăm ngàn tay kiếm. Tất cả đều là những chiến sĩ. Người Y-sơ-ra-ên lên Bê-tên và cầu hỏi Đức Chúa Trời. Họ nói: “Ai trong chúng con sẽ lên đánh Bên-gia-min trước?” CHÚA đáp: “Giu-đa sẽ đi trước.” Sáng hôm sau, dân Y-sơ-ra-ên dậy sớm và hạ trại gần Ghi-bê-a. Dân Y-sơ-ra-ên ra đánh người Bên-gia-min. Họ dàn trận để giao chiến tại Ghi-bê-a. Người Bên-gia-min ra khỏi Ghi-bê-a và chém gục hai mươi hai ngàn người Y-sơ-ra-ên trong trận chiến ngày hôm ấy. Nhưng người Y-sơ-ra-ên khích lệ nhau và ra dàn trận nơi họ đã dàn trận ngày hôm trước. Người Y-sơ-ra-ên đi lên và khóc trước mặt CHÚA cho đến chiều tối. Họ cầu hỏi CHÚA rằng: “Chúng con có nên đi lên dàn trận giao chiến với người Bên-gia-min, là anh em của chúng con chăng?” CHÚA đáp: “Hãy lên đánh chúng.” Vậy, ngày thứ nhì, người Y-sơ-ra-ên kéo đến đánh người Bên-gia-min. Trong ngày thứ nhì đó, người Bên-gia-min từ trong Ghi-bê-a kéo ra nghinh chiến, và họ đã hạ sát thêm mười tám ngàn người Y-sơ-ra-ên; tất cả đều là những tay kiếm bản lĩnh. Bấy giờ tất cả người Y-sơ-ra-ên đi lên Bê-tên; họ ngồi đó và khóc trước mặt CHÚA. Họ kiêng ăn cho đến chiều tối ngày hôm đó. Họ dâng những tế lễ thiêu và tế lễ cầu an lên CHÚA. Rồi họ cầu hỏi CHÚA, trong lúc ấy, Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời để tại đó. Có Phi-nê-a, con của Ê-lê-a-sa, cháu của A-rôn đang phục vụ trước mặt CHÚA. Họ hỏi: “Chúng con có nên đi lên dàn trận giao chiến với người Bên-gia-min, là anh em của chúng con, hay là chúng con nên ngưng lại?” CHÚA phán: “Hãy đi. Ngày mai Ta sẽ phó chúng nó vào tay các ngươi.” Người Y-sơ-ra-ên bèn đặt binh phục chung quanh Ghi-bê-a. Ngày thứ ba, họ kéo lên dàn trận trước Ghi-bê-a để giao chiến với người Bên-gia-min như đã làm hai ngày trước. Người Bên-gia-min đi ra đánh họ và bị dụ ra xa thành. Chúng bắt đầu đánh giết người Y-sơ-ra-ên như đã làm trong hai ngày trước. Vậy chúng đánh giết được khoảng ba mươi người Y-sơ-ra-ên ngoài đồng và trên những con đường nối liền giữa Bê-tên và Ghi-bê-a. Người Bên-gia-min nói với nhau: “Chúng ta đánh bại chúng như lần trước.” Còn người Y-sơ-ra-ên thì nói: “Chúng ta hãy theo các đường cái mà rút lui và dụ chúng đi xa khỏi thành.” Bấy giờ toàn quân Y-sơ-ra-ên chỗi dậy khỏi chỗ mình và kéo đến dàn trận tại Ba-anh Tha-ma, còn đội quân phục kích cũng chỗi dậy và tấn công vào phía tây của Ghi-bê-a. Rồi mười ngàn quân tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên tấn công vào mặt chính của Ghi-bê-a. Trận chiến thật dữ dội, trong khi người Bên-gia-min không biết thảm họa đã gần kề. CHÚA đã đánh bại người Bên-gia-min trước mặt người Y-sơ-ra-ên. Trong ngày ấy, người Y-sơ-ra-ên đánh hạ hai mươi lăm ngàn một trăm người Bên-gia-min. Tất cả đều là những tay kiếm giỏi. Khi ấy người Bên-gia-min biết rằng chúng đã bại trận. Lúc bấy giờ người Y-sơ-ra-ên nhượng bộ trước sự tấn công của người Bên-gia-min, bởi vì họ tin tưởng vào đội quân phục kích họ đã đặt gần Ghi-bê-a. Đội quân phục kích đã đột ngột tấn công vào thành Ghi-bê-a. Họ tràn ra khắp thành và dùng gươm giết tất cả mọi người trong thành. Người Y-sơ-ra-ên có giao hẹn với đội quân phục kích rằng khi chiếm được thành họ phải đốt lên trong thành một luồng khói lớn để làm hiệu, thì bấy giờ người Y-sơ-ra-ên sẽ quay lại chiến đấu. Lúc người Bên-gia-min bắt đầu tiến đánh và giết hại khoảng ba mươi người Y-sơ-ra-ên, chúng nói: “Chúng ta đánh bại chúng như trận trước.” Nhưng khi cột khói bắt đầu bốc lên trong thành, người Bên-gia-min quay lại và thấy cả thành đều bốc khói lên trời. Bấy giờ người Y-sơ-ra-ên quay lại tấn công, còn người Bên-gia-min thì hoảng sợ, bởi vì chúng nhận biết rằng tai họa sắp giáng xuống trên chúng. Vậy chúng quay lưng chạy trốn trước mặt người Y-sơ-ra-ên vào hướng sa mạc, nhưng chúng chẳng thể tránh chiến đấu được; dân quân từ các thành bủa ra chém giết chúng. Người ta bao vây người Bên-gia-min, liên tục truy kích chúng, và triệt hạ chúng trong vùng gần Ghi-bê-a, về hướng đông. Mười tám ngàn người Bên-gia-min đã ngã chết; tất cả đều là những chiến sĩ dũng cảm. Khi chúng quay lưng chạy trốn vào sa mạc, về hướng vầng đá Rim-môn, thì dọc các đường chính đã có thêm năm ngàn người bị giết. Chúng cũng bị truy đuổi tận đến Ghi-đôm và có hai ngàn người nữa bị giết. Vậy tổng số người Bên-gia-min bị giết trong ngày ấy là hai mươi lăm ngàn; hết thảy đều là những tay kiếm can trường. Nhưng có sáu trăm người quay lưng chạy trốn vào sa mạc và đến ẩn núp tại vầng đá Rim-nôm được bốn tháng. Rồi người Y-sơ-ra-ên quay về thanh toán dân Bên-gia-min. Họ dùng gươm diệt tất cả dân chúng, súc vật, và bất cứ những gì còn lại trong các thành của người Bên-gia-min. Đến thành nào họ cũng đều phóng hỏa thiêu rụi thành ấy. Cứu Người Bên-gia-min Khỏi Bị Tuyệt Chủng Khi ấy, người Y-sơ-ra-ên có thề với nhau tại Mích-ba rằng: “Không ai trong chúng ta sẽ gả con gái mình làm vợ người Bên-gia-min.” Rồi dân chúng kéo đến Bê-tên và ngồi tại đó trước mặt Đức Chúa Trời cho đến chiều tối. Họ cất tiếng lớn khóc cách đắng cay rằng: “Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; tại sao điều này lại xảy đến cho Y-sơ-ra-ên? Tại sao ngày nay chúng con bị thiếu mất đi một bộ tộc?” Hôm sau, dân chúng dậy sớm, dựng một bàn thờ tại đó, rồi dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an. Bấy giờ họ nói: “Có gia tộc nào trong tất cả các gia tộc của Y-sơ-ra-ên không đến dự đại hội trước mặt CHÚA không?” Vì họ có lập một lời thề long trọng về việc không đến trước mặt CHÚA tại Mích-ba rằng: “Ai không đến sẽ bị xử tử.” Người Y-sơ-ra-ên ân hận về việc người Bên-gia-min, anh em của họ, và nói: “Ngày nay, một bộ tộc đã bị dứt khỏi Y-sơ-ra-ên. Chúng ta phải làm sao để kiếm vợ cho những người còn sót lại, vì chúng ta có thề trước mặt CHÚA rằng chúng ta sẽ không gả con gái chúng ta làm vợ cho chúng?” Rồi họ nói: “Có ai trong các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên không đến trước mặt CHÚA tại Mích-ba chăng?” Họ khám phá ra rằng chẳng có ai từ gia tộc Gia-bê ở Ga-la-át có mặt ở trại quân trong ngày đại hội. Vì khi điểm danh dân chúng không có người nào trong gia tộc của Gia-bê ở Ga-la-át có mặt tại đó. Vậy hội chúng liền phái mười hai ngàn quân đến đó với lệnh rằng: “Hãy đi, dùng gươm diệt tất cả dân Gia-bê ở Ga-la-át, kể cả phụ nữ và trẻ em. Đây là điều các ngươi phải làm: các ngươi phải diệt tất cả những người nam và những người nữ nào đã ăn nằm với một người nam.” Chúng tìm thấy trong dân Gia-bê ở Ga-la-át có bốn trăm trinh nữ, là những người chưa hề ăn nằm với một người nam nào, rồi chúng đưa các trinh nữ ấy về trại quân tại Si-lô, trong xứ Ca-na-an. Đoạn cả hội chúng phái người đến gặp người Bên-gia-min đang ẩn núp tại vầng đá Rim-môn để làm hòa với họ. Người Bên-gia-min bèn trở về. Họ ban cho những người Bên-gia-min này những thiếu nữ mà họ đã giữ mạng lại trong vòng những phụ nữ của Gia-bê ở Ga-la-át; nhưng số thiếu nữ đó không đủ cho chúng. Dân chúng ân hận về việc họ đã làm đối với bộ tộc Bên-gia-min, bởi vì CHÚA đã cho có một chỗ bị khuyết trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên. Vậy các trưởng lão của hội chúng nói: “Chúng ta phải làm gì cho những người còn lại mà không có vợ, vì không còn phụ nữ nào sót lại trong gia tộc Bên-gia-min nữa?” Vì họ nói: “Phải có người thừa hưởng phần sản nghiệp dành cho bộ tộc Bên-gia-min còn sót lại, hầu cho một bộ tộc không bị xóa khỏi Y-sơ-ra-ên. Trong khi đó chúng ta lại không thể gả con gái chúng ta cho chúng làm vợ.” Vì người Y-sơ-ra-ên đã có thề: “Đáng rủa sả thay cho kẻ gả con gái làm vợ người Bên-gia-min.” Vậy họ nói: “Hãy xem, hằng năm đều có kỳ lễ cho CHÚA tại Si-lô, trong khu vực về phía bắc của Bê-tên, bên phía đông con đường đi từ Bê-tên lên Si-chem, và phía nam Lê-bô-na.” Họ bảo người Bên-gia-min: “Hãy đi, nằm phục trong các vườn nho; và để ý, khi nào thấy các thiếu nữ ở Si-lô ra múa hát, thì các ngươi hãy ra khỏi các vườn nho và mỗi người bắt cóc lấy một thiếu nữ để làm vợ cho mình, rồi trở về trong đất Bên-gia-min. Nếu cha và anh của chúng có đến kiện cáo với chúng ta, thì chúng ta sẽ bảo họ: ‘Thôi hãy rộng lượng và thông cảm cho chúng tôi mà gả các cháu cho họ đi. Vì trong trận chiến vừa qua, chúng ta không kiếm đủ cho họ mỗi người được một người vợ. Hơn nữa anh em cũng đâu có mắc phải lời thề.’ ” Người Bên-gia-min bèn làm như vậy. Mỗi người ra bắt cóc cho mình một cô thiếu nữ làm vợ. Rồi họ trở về lãnh thổ của Bên-gia-min. Họ xây dựng lại thành trì và sống ở đó. Còn người Y-sơ-ra-ên thì rời khỏi nơi đó và trở về bộ tộc và gia tộc của mình. Ai nấy đều rời khỏi nơi đó mà trở về lãnh thổ của mình. Trong lúc ấy, dân Y-sơ-ra-ên không có vua; ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải.