- New Vietnamese Bible 2014
Thẩm Phán
THẨM PHÁN
Thẩm Phán
Thẩm
THẨM PHÁN
Giới Thiệu
Sách Thẩm Phán ghi lại những câu chuyện về người Y-sơ-ra-ên trong thời kỳ từ khi chiếm vùng Ca-na-an cho đến khi thành lập nền quân chủ. Đa số những người lãnh đạo hay anh hùng được ghi chép lại trong thời này là những lãnh đạo quân sự hơn là thẩm phán theo nghĩa pháp lý. Một vài thẩm phán quan trọng trong thời kỳ này là Ghi-đê-ôn, Sam-sôn.
Bài học lớn nhất trong sách Thẩm Phán là sự sống còn của dân tộc Do Thái tùy thuộc vào sự trung tín với Chúa; bất trung với Chúa luôn luôn dẫn đến tai họa. Dù vậy, ngay trong khi bất trung và đang bị tai họa nhưng nếu dân chúng ăn năn, quay trở lại với Chúa của mình thì Ngài luôn luôn sẵn sàng giải cứu họ.
Bố Cục
1. Những biến cố cho đến khi Giô-suê qua đời 1:1–2:10
2. Các thẩm phán của người Y-sơ-ra-ên 2:11–16:31
3. Những biến cố khác 17:1–21:25
Chi Tộc Giu-đa Và Chi Tộc Si-mê-ôn Đánh Bại A-đô-ni Bê-xéc
Sau khi Giô-suê qua đời, dân Y-sơ-ra-ên cầu hỏi CHÚA rằng: “Ai trong chúng con sẽ đi đánh dân Ca-na-an trước?” CHÚA phán: “Bộ tộc Giu-đa sẽ lên đánh trước. Ta sẽ phó xứ vào tay họ.” Người Giu-đa bèn nói với người Si-mê-ôn, là anh em của họ rằng: “Xin hãy lên đánh dân Ca-na-an giúp chúng tôi, trong phần đất đã chia cho chúng tôi; rồi sau đó chúng tôi sẽ đi với anh em đến phần đất đã chia cho anh em.” Người Si-mê-ôn liền đi lên với họ. Vậy người Giu-đa đi lên, và CHÚA phó dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít vào tay họ. Họ đánh hạ mười ngàn người tại Bê-xéc. Tại Bê-xéc họ đánh bại vua A-đô-ni Bê-xéc, dân Ca-na-an và dân Phê-rê-sít. A-đô-ni Bê-xéc chạy trốn, nhưng họ đuổi theo và bắt được vua. Họ chặt đứt các ngón cái của tay và chân vua. A-đô-ni Bê-xéc bèn nói: “Có bảy mươi vua bị chặt đứt các ngón cái của tay và chân, phải lượm thức ăn vụn dưới bàn ta. Những gì ta đã làm cho người khác, bây giờ Đức Chúa Trời báo trả lại trên ta.” Họ dẫn vua đến Giê-ru-sa-lem và vua qua đời tại đó.
Chi Tộc Giu-đa Chinh Phục Giê-ru-sa-lem Và Hếp-rôn
Người Giu-đa tiến đánh Giê-ru-sa-lem và chiếm lấy. Họ dùng gươm hủy diệt và phóng hỏa thành. Sau đó người Giu-đa tiến xuống tấn công dân Ca-na-an cư ngụ ở miền quê trên các cao nguyên, ở miền Nam, và ở vùng đồng bằng. Người Giu-đa cũng tiến đánh dân Ca-na-an ở miền Hếp-rôn1:10 Tên của Hếp-rôn trước kia là Ki-ri-át A-ra-ba và đánh hạ các thành Sê-sai, A-hi-man, và Tan-mai.
Ốt-ni-ên Chinh Phục Đê-bia
Từ đó họ tiến đánh dân thành Đê-bia1:11 Tên của Đê-bia trước kia là Ki-ri-át Sê-phe Bấy giờ Ca-lép tuyên bố: “Ai tấn công Ki-ri-át Sê-phe và chiếm được nó, thì ta sẽ gả con gái ta là Ạc-sa làm vợ người ấy.” Ốt-ni-ên, con trai của Kê-na, em trai của Ca-lép, đánh hạ được thành ấy; Ca-lép bèn gả Ạc-sa, con gái ông, làm vợ Ốt-ni-ên. Khi Ạc-sa về nhà chồng, nàng giục chồng hãy xin cha nàng một cánh đồng. Khi nàng xuống lừa, Ca-lép hỏi: “Con muốn gì đây?” Nàng thưa: “Con muốn xin cha cho con một món quà. Bây giờ cha đã gả con về miền nam khô cằn thì xin cha cũng hãy cho con các suối nước nữa.” Ca-lép bèn ban cho nàng các suối nước ở miền thượng lưu và các suối nước ở miền hạ lưu.
Những Chiến Thắng Của Chi Tộc Giu-đa Và Chi Tộc Bên-gia-min
Các con cháu của Kê-nít, nhạc phụ của Môi-se, từ thành Cây chà là cùng đi lên với người Giu-đa, họ đến định cư giữa những người sống trong vùng đồng hoang của Giu-đa, là vùng nằm về phía nam, gần A-rát. Người Giu-đa với người Si-mê-ôn, là anh em của họ, đi lên đánh bại dân Ca-na-an ngụ tại Xê-phát và hủy diệt nơi ấy. Vì thế họ gọi nơi ấy là Họt-ma. Người Giu-đa chiếm lấy Ga-xa và vùng phụ cận, Ách-ca-lôn và vùng phụ cận, Éc-rôn và vùng phụ cận. CHÚA ở cùng người Giu-đa và họ chiếm lấy các vùng cao nguyên; nhưng họ không thể đuổi dân Ca-na-an ở vùng đồng bằng đi được, vì chúng có thiết xa. Theo như lệnh của Môi-se đã truyền, người ta ban Hếp-rôn cho Ca-lép. Ca-lép bèn đuổi ba con trai của A-nác ra khỏi vùng ấy. Nhưng người Bên-gia-min không đuổi dân Giê-bu-sít ngụ tại Giê-ru-sa-lem đi, cho nên dân Giê-bu-sít vẫn sống tại Giê-ru-sa-lem giữa người Bên-gia-min cho đến ngày nay.
Chi Tộc Ép-ra-im Và Chi Tộc Ma-na-se Chinh Phục Bê-tên
Nhà Giô-sép cũng lên tiến đánh Bê-tên, và CHÚA ở với họ. Nhà Giô-sép sai các thám tử đến do thám Bê-tên1:23 Tên của thành này trước kia là Lu-xơ Các thám tử thấy một người trong thành đi ra, họ bắt lại hỏi: “Hãy chỉ cho chúng tôi lối vào trong thành, thì chúng tôi sẽ đối xử tử tế với anh.” Vậy người ấy chỉ cho họ lối vào trong thành. Họ bèn dùng gươm đánh diệt thành nhưng để cho người ấy và gia đình người ấy ra đi. Vậy người ấy đến trong xứ của dân Hê-tít và xây dựng một thành, rồi đặt tên là Lu-xơ. Ấy là tên của thành đó cho đến ngày nay.
Những Dân Tộc Người Y-sơ-ra-ên Còn Chừa Lại
Người Ma-na-se không đuổi đi dân ở Bết Sê-an và các làng xã xung quanh nó, dân ở Tha-a-nác và các làng xã xung quanh nó, dân ở Đô-rơ và các làng xã xung quanh nó, dân ở Ghíp-lê-am và các làng xã xung quanh nó, dân ở Mê-ghi-đô và các làng xã xung quanh nó; vì dân Ca-na-an đã quyết chí tiếp tục cư ngụ trong xứ. Khi người Y-sơ-ra-ên cường thịnh thì họ bắt dân Ca-na-an phục dịch họ, nhưng họ không đuổi chúng đi.
Người Ép-ra-im cũng không đuổi dân Ca-na-an sống ở Ghê-xe đi; nhưng dân Ca-na-an sống giữa họ ở Ghê-xe.
Người Sa-bu-luân cũng không đuổi dân ở Kít-rôn, hoặc dân ở Na-ha-lô đi, nhưng dân Ca-na-an vẫn sống giữa họ, và bị bắt phải phục dịch họ.
Người A-se cũng không đuổi dân ở A-cô, dân ở Si-đôn, dân ở Ách-láp, dân ở Ạc-xíp, dân ở Hên-ba, dân ở A-phéc, hay dân ở Rê-hốp đi; nhưng người A-se lập nghiệp giữa dân Ca-na-an, là cư dân trong xứ; vì họ không đuổi chúng đi.
Người Nép-ta-li cũng không đuổi dân ở Bết Sê-mết, hay dân ở Bết A-nát đi, nhưng họ lập nghiệp giữa dân Ca-na-an, là cư dân trong xứ; nhưng dân Bết Sê-mết và dân Bết A-nát bị bắt phải phục dịch họ.
Dân A-mô-rít dồn người Đan lên núi, không cho họ xuống đồng bằng. Dân A-mô-rít quyết chí tiếp tục cư ngụ tại Hê-re, A-gia-lôn, và Sa-an-bim; nhưng tay của nhà Giô-sép đè nặng trên chúng, và chúng bị bắt phải phục dịch họ. Địa phận của dân A-mô-rít kéo dài từ đèo Bò-cạp đến Sê-la trở lên.
Thiên Sứ Của CHÚA Hiện Đến
Bấy giờ, thiên sứ của CHÚA đi từ Ghinh-ganh đến Bô-kim, phán rằng: “Ta đã đem các ngươi lên khỏi xứ Ai-cập, và Ta đã đem các ngươi vào xứ Ta đã hứa với tổ phụ các ngươi. Ta có phán: ‘Ta sẽ không bao giờ hủy bỏ giao ước Ta đã lập với các ngươi. Phần các ngươi, thì các ngươi không được lập giao ước với các cư dân trong xứ này; mà phải phá đổ các bàn thờ của chúng đi.’ Nhưng các ngươi không vâng theo mệnh lệnh Ta. Sao các ngươi lại làm như vậy? Nên bây giờ Ta phán, Ta sẽ không đuổi chúng đi khỏi mặt các ngươi nữa; nhưng chúng sẽ trở thành như gai góc bên cạnh các ngươi, và các thần tượng của chúng sẽ là cạm bẫy cho các ngươi.” Khi thiên sứ phán những lời này cho cả dân Y-sơ-ra-ên xong thì dân chúng cất tiếng lên khóc. Vì thế họ đặt tên chỗ đó là Bô-kim, rồi họ dâng tế lễ cho CHÚA tại đó.
Giô-suê Qua Đời
Sau khi Giô-suê cho dân chúng ra về, mọi người Y-sơ-ra-ên đều vào nhận sản nghiệp của mình và chiếm lấy xứ. Dân Y-sơ-ra-ên phụng thờ CHÚA trọn đời của Giô-suê, và trọn đời của các trưởng lão sống lâu hơn Giô-suê, ấy là những người đã chứng kiến tận mắt những việc lớn lao mà CHÚA đã làm cho Y-sơ-ra-ên. Giô-suê con của Nun, đầy tớ của CHÚA, qua đời lúc một trăm mười tuổi. Người ta chôn ông trong địa phận thuộc sản nghiệp của ông ở Thim-nát Hê-re, thuộc vùng cao nguyên Ép-ra-im, về phía bắc của núi Ga-ách.
Sau đó, cả thế hệ ấy đều quy về cùng tổ phụ họ, một thế hệ khác lớn lên kế tiếp họ; thế hệ mới này chẳng biết CHÚA và cũng không biết những việc Ngài đã làm cho Y-sơ-ra-ên.
Dân Y-sơ-ra-ên Bỏ CHÚA
Khi ấy dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA và thờ lạy các thần Ba-anh. Họ bỏ CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, là Đấng đã đem họ ra khỏi xứ Ai-cập, mà theo các thần khác, tức là các thần của những dân tộc sống xung quanh họ; họ quỳ lạy trước các thần ấy và chọc giận CHÚA. Họ bỏ CHÚA mà thờ lạy Ba-anh và Át-tạc-tê. Vậy nên cơn giận của CHÚA bừng lên nghịch cùng Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ cho quân cướp để chúng cướp bóc họ; Ngài bán họ vào tay quân thù ở xung quanh, để họ không thể chống cự nổi những kẻ thù của họ. Mỗi khi họ xuất quân ra trận, tay CHÚA nghịch lại họ, khiến họ gặp chuyện rủi ro, y như CHÚA đã cảnh cáo và thề với họ trước kia. Họ sống trong cảnh thật vô cùng bi đát.
Bấy giờ CHÚA dấy lên những vị thẩm phán, để giải cứu họ ra khỏi quyền lực của những kẻ cướp bóc họ. Dầu vậy, họ cũng không chịu nghe theo các vị thẩm phán; vì họ mê đắm các thần khác và quỳ lạy trước mặt các thần ấy. Họ vội từ bỏ con đường mà tổ phụ họ, là những người đã vâng theo mạng lệnh CHÚA, đã đi. Họ không noi theo gương của tổ phụ họ. Mỗi khi CHÚA dấy lên một vị thẩm phán để lãnh đạo họ, CHÚA ở cùng vị thẩm phán đó. Trọn đời của vị thẩm phán ấy Ngài giải thoát họ khỏi tay các kẻ thù; bởi vì CHÚA có động lòng thương xót họ khi nghe họ than khóc do bị quân thù bách hại và đàn áp. Nhưng mỗi khi một vị thẩm phán qua đời, họ liền quay trở về đường cũ. Họ càng trở nên tệ hơn những bậc tiền bối của họ. Họ tin theo các thần khác, thờ phượng các thần ấy, và quỳ lạy trước mặt chúng. Họ chẳng chịu từ bỏ sự thờ phượng sai lạc của họ và cũng chẳng chịu lìa bỏ những đường lối ương ngạnh của họ. Vậy nên cơn giận của CHÚA bừng lên nghịch lại Y-sơ-ra-ên, và Ngài phán: “Bởi vì dân này đã cố tình phạm giao ước mà Ta đã lập với tổ phụ chúng, và chúng không chịu vâng theo lời Ta, Ta sẽ không đuổi đi khỏi chúng những dân tộc còn sót lại khi Giô-suê qua đời nữa. Để thử xem dân Y-sơ-ra-ên có bước đi trong đường lối CHÚA như tổ phụ của chúng đã làm chăng.” Vậy CHÚA chừa lại các dân tộc đó, không đuổi chúng đi ngay, và cũng không phó chúng vào tay Giô-suê.
Những Dân Tộc Còn Lại Trong Xứ
Đây là các dân tộc mà CHÚA còn chừa lại để dùng họ thử luyện những người Y-sơ-ra-ên chưa từng có kinh nghiệm chiến trường ở Ca-na-an (Ngài chỉ muốn dùng chúng để dạy những thế hệ mới của Y-sơ-ra-ên về chiến trận, ấy là những kẻ chưa hề thấy những trận chiến ngày trước). Năm lãnh chúa của dân Phi-li-tin, các dân Ca-na-an, dân Si-đôn, và dân Hê-vít cư ngụ trên núi Li-ban, từ Ba-anh Hẹt-môn cho đến Đèo Ha-mát. Các dân tộc này được dùng để thử lòng dân Y-sơ-ra-ên, xem họ có vâng theo các điều răn mà CHÚA đã dùng Môi-se truyền dạy cho các tổ phụ họ chăng. Vì thế người Y-sơ-ra-ên sống giữa dân Ca-na-an, dân Hê-tít, dân A-rô-rít, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít. Họ cưới con gái chúng làm vợ, gả con gái họ cho con trai chúng, và họ thờ lạy các thần của chúng.
Ốt-ni-ên
Dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA, họ quên CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, mà thờ lạy Ba-anh và A-sê-ra. Vì vậy cơn giận của CHÚA bừng lên nghịch lại Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ vào tay Cút-san Ri-sa-tha-im, vua của A-ram Na-ha-ra-im. Dân Y-sơ-ra-ên phục vụ Cút-san Ri-sa-tha-im tám năm. Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên khóc than cùng CHÚA, CHÚA bèn dấy lên một người giải phóng, ấy là Ốt-ni-ên, con trai của Kê-na, em trai của Ca-lép. Thần của CHÚA ngự trên ông và ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên. Ông dấy binh khởi nghĩa, và CHÚA phó Cút-san Ri-sa-tha-im, vua của A-ram vào tay ông, tay ông thắng hơn Cút-san Ri-sa-tha-im. Nhờ thế xứ được hòa bình bốn mươi năm. Sau đó, Ốt-ni-ên con trai của Kê-na qua đời.
Ê-hút
Dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác trước mặt CHÚA, nên CHÚA khiến cho Éc-lôn, vua Mô-áp, mạnh hơn Y-sơ-ra-ên; bởi vì điều ác họ đã làm trước mặt CHÚA. Éc-lôn kết đồng minh với dân Am-môn và dân A-ma-léc rồi xuất quân đánh bại dân Y-sơ-ra-ên. Chúng chiếm lấy thành Cây Chà Là. Thế là dân Y-sơ-ra-ên phải phục vụ Éc-lôn, vua Mô-áp, mười tám năm.
Nhưng khi dân Y-sơ-ra-ên khóc van cùng CHÚA, CHÚA dấy lên một người giải phóng, người ấy là Ê-hút, con trai của Ghê-ra, thuộc bộ tộc Bên-gia-min; Ê-hút là một người thuận tay trái. Dân Y-sơ-ra-ên phái ông đem cống vật đến Éc-lôn, vua Mô-áp. Ê-hút tự làm lấy một đoản gươm hai lưỡi, dài khoảng năm tấc. Ông buộc nó trong đùi phải, khuất dưới áo quần; rồi ông mang cống vật đến nộp cho Éc-lôn, vua Mô-áp. Vả, Éc-lôn là một người rất mập. Khi Ê-hút trình dâng các cống vật xong rồi, ông cho những người mang cống vật đi về trước. Còn ông, khi đến hầm đục đá gần Ghinh-ganh, ông quay trở lại và nói: “Tâu vua, tôi có một việc bí mật muốn tâu riêng với vua.”
Vua truyền: “Im lặng!”
Tất cả những kẻ hầu cận của vua đều lui ra. Đang khi vua ngồi một mình nơi lầu mát, Ê-hút đến gần vua và tâu rằng: “Tôi có một sứ điệp từ Đức Chúa Trời cho vua.” Vừa khi vua đứng dậy khỏi ngai, Ê-hút dùng tay trái rút đoản gươm dấu nơi đùi phải và đâm mạnh vào bụng Éc-lôn. Cán gươm lút theo với lưỡi, mỡ phủ lại quanh lưỡi gươm, và ruột lòi ra. Ông để nguyên đoản gươm trong bụng, mà không rút ra, vì nó thấu đến sau lưng. Ê-hút đóng tất cả cửa của lầu mát lại, khóa chặt hết các cửa, rồi lẻn đi.
Sau khi Ê-hút đã đi rồi, các tôi tớ của vua trở lại, thấy các cửa lầu mát đều khóa chặt, họ nghĩ: “Chắc vua đang nghỉ ngơi trong lầu mát.” Vì thế họ đứng đợi bên ngoài, cho đến khi bối rối. Khi thấy chờ mãi mà vua vẫn chưa mở cửa, họ bèn lấy chìa khóa và mở cửa ra. Kìa vua của họ đã nằm chết dưới sàn. Đang khi họ bối rối trì trệ thì Ê-hút đã chạy thoát được, vượt qua các hầm đá, mà chạy về Sê-i-ra. Khi đến nơi, ông thổi kèn triệu tập dân chúng vùng cao nguyên Ép-ra-im. Người Y-sơ-ra-ên nhóm lại theo ông xuống núi, chính ông dẫn đầu họ. Ông nói: “Hãy theo tôi. Vì CHÚA đã phó kẻ thù các người là dân Mô-áp vào tay các người.” Vậy họ theo ông xuống chiếm những khúc cạn, nơi người Mô-áp thường lội qua sông Giô-đanh; họ cấm không cho một ai qua sông. Trong trận ấy họ đánh giết mười ngàn người Mô-áp, tất cả đều là những người lực lưỡng và dũng mãnh; không một ai thoát khỏi. Vậy dân Mô-áp chịu khuất phục dưới tay dân Y-sơ-ra-ên, và xứ được hòa bình tám mươi năm.
Sam-ga
Sau Ê-hút có Sam-ga, con trai của A-nát. Sam-ga dùng một cây đót bò đánh chết sáu trăm người Phi-li-tin. Vậy Sam-ga cũng là người giải phóng dân Y-sơ-ra-ên.
Đê-bô-ra Và Ba-rác
Sau khi Ê-hút qua đời, dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác trước mặt CHÚA. Nên CHÚA phó họ vào tay Gia-bin, vua của Ca-na-an, khi ấy đang trị vì tại Hát-so. Tổng tư lệnh quân đội của Gia-bin là Si-sê-ra; Si-sê-ra đặt bộ chỉ huy tại Ha-rô-sết Ha-gô-im. Vì Gia-bin có chín trăm thiết xa và đàn áp dân Y-sơ-ra-ên rất tàn bạo trong hai mươi năm, nên dân Y-sơ-ra-ên kêu van cùng CHÚA xin cứu giúp.
Lúc ấy nữ tiên tri Đê-bô-ra, vợ của Láp-bi-đốt, làm thẩm phán trong Y-sơ-ra-ên. Bà ngồi làm việc dưới cây chà là Đê-bô-ra, ở giữa Ra-ma và Bê-tên, trên cao nguyên Ép-ra-im; dân Y-sơ-ra-ên đến với bà để bà xét xử. Bà sai người đến mời Ba-rác, con trai của A-bi-nô-am, ở Kê-đe, thuộc địa phận của bộ tộc Nép-ta-li, đến và nói với ông rằng: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên truyền cho ngươi, ‘Hãy đi, đem theo mười ngàn người từ bộ tộc Nép-ta-li và bộ tộc Sa-bu-luân mà chiếm lấy núi Tha-bô. Ta sẽ khiến Si-sê-ra, tổng tư lệnh quân đội của Gia-bin, với các thiết xa và quân đội của hắn, đến gặp ngươi ở Khe Ki-sôn. Ta sẽ phó hắn vào tay ngươi.’ ” Ba-rác đáp: “Nếu bà đi với tôi thì tôi sẽ đi, nhưng nếu bà không đi với tôi thì tôi sẽ không đi.”
Bà nói: “Chắc chắn tôi sẽ đi với ông; nhưng công chiến thắng trong trận này sẽ không về tay ông; vì CHÚA sẽ phó Si-sê-ra vào tay một phụ nữ.” Vậy Đê-bô-ra đứng dậy đi với Ba-rác đến Kê-đe. Ba-rác triệu tập người Sa-bu-luân và người Nép-ta-li tại Kê-đe. Có mười ngàn người theo ông, và cũng có Đê-bô-ra đi với ông. Bấy giờ, Hê-be người Kê-nít, đã tách rời khỏi dân Kê-nít, tức là dòng dõi của Hô-báp, anh em vợ của Môi-se, mà ra ở riêng. Ông dựng lều trại của ông ở tận Cây Sồi Sa-na-nim, gần Kê-đe. Khi Si-sê-ra đã hay rằng Ba-rác, con trai của A-bi-nô-am, đã đến núi Tha-bô, Si-sê-ra liền truyền lệnh đem tất cả chiến xa, gồm chín trăm thiết xa, và tất cả quân đội dưới quyền mình, từ Ha-rô-sết Ha-gô-im kéo đến Khe Ki-sôn. Bấy giờ Đê-bô-ra nói với Ba-rác: “Hãy đứng lên! Vì đây là ngày CHÚA phó Si-sê-ra vào tay ông. Há chẳng phải chính CHÚA đi trước ông sao?” Vậy Ba-rác từ trên núi Tha-bô đi xuống, với mười ngàn người đi theo ông. Khi Ba-rác tấn công, CHÚA khiến Si-sê-ra, tất cả các chiến xa hắn, và tất cả quân đội đi theo hắn đều ngã chết dưới gươm. Si-sê-ra phải bỏ chiến xa chạy bộ tẩu thoát. Ba-rác đuổi theo các chiến xa và bộ binh đến tận Ha-rô-sết Ha-gô-im. Tất cả các quân sĩ của Si-sê-ra đều bị ngã chết dưới gươm, không một ai sống sót. Nhưng chỉ còn một mình Si-sê-ra là chạy bộ thoát được. Hắn chạy đến lều của Gia-ên, vợ của Hê-be, người Kê-nít; bởi vì giữa vua Gia-bin ở Hát-so và gia tộc của Hê-be, người Kê-nít, có mối giao hảo thân thiện với nhau.
Gia-ên đi ra đón Si-sê-ra và nói với hắn: “Thưa ngài, xin mời ngài vào tệ xá. Đừng sợ gì cả.” Vậy hắn vào lều của bà, và bà lấy mền đắp hắn lại. Hắn nói với bà: “Tôi khát quá. Cho tôi xin miếng nước.” Bà mở bầu da đựng sữa ra, cho hắn uống, rồi lấy mền đắp hắn lại. Hắn bảo bà: “Bà hãy đứng nơi cửa lều. Nếu có ai đi qua và hỏi: ‘Có ai ở đây không?’ thì hãy trả lời rằng, ‘Không.’ ” Nói xong Si-sê-ra lăn ra ngủ say vì quá mệt mỏi. Bấy giờ Gia-ên, vợ của Hê-be, lấy một cây cọc trại, tay cầm cái búa, nhè nhẹ đến bên hắn. Bà đóng cây cọc trại vào màng tang hắn, thấu xuống đất, và hắn chết liền tại chỗ. Vừa khi Ba-rác truy tầm Si-sê-ra đi ngang qua đó, Gia-ên đi ra đón ông và nói: “Hãy đến đây. Tôi sẽ chỉ cho ông người mà ông đang tìm kiếm.” Vậy Ba-rác đi theo bà, và kìa, ông thấy Si-sê-ra nằm chết với cây cọc trại đâm thủng màng tang. Trong ngày đó Đức Chúa Trời bắt Gia-bin, vua dân Ca-na-an, phải khuất phục trước dân Y-sơ-ra-ên. Tay của dân Y-sơ-ra-ên càng ngày càng mạnh đối với Gia-bin, vua dân Ca-na-an, cho đến khi họ tiêu diệt vua ấy đi.
Bài Ca Ngợi Của Đê-bô-ra
Trong ngày ấy, Đê-bô-ra và Ba-rác, con trai của A-bi-nô-am hát rằng:
“Khi các quan trưởng lãnh đạo trong Y-sơ-ra-ên,
Và khi dân chúng tự nguyện vâng phục,
Ca tụng CHÚA!
Hỡi các vua, xin hãy nghe; hỡi các lãnh tụ, xin lắng nghe.
Tôi sẽ hát cho CHÚA,
Tôi sẽ hát một bài ca cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
Lạy CHÚA, khi Ngài từ Sê-i-rơ đi ra,
Khi Ngài đi qua vùng Ê-đôm,
Thì đất rúng động,
Trời đổ cơn mưa,
Mây tuôn nước xuống.
Các núi rúng động trước mặt CHÚA,
Núi Si-nai run rẩy trước mặt CHÚA,
Là Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
Trong ngày của Sam-ga, con trai A-nát,
Trong ngày của Gia-ên, các đại lộ bị bỏ hoang,
Khách bộ hành phải đi tránh vào các con đường nhỏ.
Cuộc sống ở nông thôn đã ngưng lại,
Nó đã ngưng lại cho đến khi tôi,
Là Đê-bô-ra, chỗi dậy,
Tôi chỗi dậy như một người mẹ trong Y-sơ-ra-ên.
Khi dân chúng chọn cho họ các thần mới,
Thì quân giặc đã vào tận trong các cổng thành.
Và trong số bốn mươi ngàn người Y-sơ-ra-ên,
Chẳng ai có được một cái khiên hay một cây giáo.
Lòng tôi ngưỡng mộ các vị tư lệnh của Y-sơ-ra-ên,
Họ thật hết lòng giúp dân giúp nước.
Ca tụng CHÚA!
Hỡi những ai cưỡi trên lừa trắng,
Hỡi những ai ngồi trên yên phủ bằng thảm nhung,
Hỡi những khách bộ hành trên đường,
Xin hãy thuật chuyện ấy ra.
Xin thuật ra cho những nhạc sĩ đang trổi nhạc bên bến nước,
Để họ diễn đi diễn lại ca khúc chiến thắng của CHÚA,
Là ca khúc chiến thắng của con dân Y-sơ-ra-ên.
Hỡi con dân của CHÚA,
Hãy cùng nhau kéo ra cổng thành
Tấn công quân giặc.
Thức dậy! Thức dậy! Hỡi Đê-bô-ra!
Thức dậy! Thức dậy! Hãy hát một bài ca!
Vùng dậy! Hỡi Ba-rác!
Hãy dẫn những phu tù của ngươi đi;
Hỡi con trai của A-bi-nô-am!
Hãy tiến xuống,
Hỡi con cháu còn sót lại của những nhà quý tộc;
Dân của CHÚA tiến xuống
Chống lại những kẻ cường bạo.
Quân dân từ bộ tộc Ép-ra-im kéo nhau ra thung lũng,
Phía sau ngươi lại có Bên-gia-min, là anh em ngươi;
Những vị tư lệnh từ Ma-ki kéo đến,
Và những người cầm gậy cầm quân từ Sa-bu-luân tiến ra.
Những vị chỉ huy của Y-sa-ca cùng đi với Đê-bô-ra;
Phải, Y-sa-ca đồng tâm hiệp lực với Ba-rác,
Họ cùng nhau xông vào thung lũng.
Còn trong các gia tộc của Ru-bên,
Người ta cứ đắn đo suy nghĩ trong lòng.
Vì sao các người còn nán trễ trong các ràn chiên,
Mà nghe tiếng gọi các đàn chiên?
Ở trong các gia tộc của Ru-bên,
Người ta cứ đắn đo suy nghĩ trong lòng.
Ga-la-át vẫn còn ở mãi bên kia sông Giô-đanh;
Còn Đan, sao ngươi cứ lẩn quẩn trên các chiếc thuyền?
A-se vẫn ngồi bất động bên bờ biển,
Đành lòng an cư bên các bãi thuyền!
Sa-bu-luân là những hào kiệt coi thường cái chết;
Nép-ta-li cũng vậy, sẵn sàng hy sinh mạng sống ở chốn sa trường.
Các vua kéo đến, họ liền tiến đánh;
Họ đánh các vua Ca-na-an,
Ở Ta-a-nác, bên giòng nước Mê-ghi-đô;
Họ chẳng màng đến chiến lợi phẩm bạc tiền.
Trên trời, các vì sao chiến đấu;
Theo tuyến đường mình mà đánh hạ Si-sê-ra.
Dòng nước ở Ki-sôn đã cuốn trôi chúng mất;
Dòng nước lũ của Ki-sôn đã lôi cuốn chúng đi.
Hỡi linh hồn ta, hãy dũng mãnh tiến lên!
Tiếng vó ngựa vang lên dồn dập,
Tiếng ngựa phi vang dội khắp nơi.
Thiên sứ của CHÚA phán:
‘Hãy rủa sả Mê-rô,
Hãy rủa sả dân cư của nó cách thậm tệ.’
Vì chúng chẳng chịu đến giúp đỡ CHÚA,
Chúng không đến giúp đỡ CHÚA
Đánh lại những kẻ cường bạo.
Người phụ nữ được phước nhất là Gia-ên,
Vợ của Hê-be, người Kê-nít,
Ấy là người phụ nữ được phước nhất trong các bà nội trợ sống trong lều trại.
Hắn hỏi nước, nàng đem cho sữa,
Dùng chén sang đem sữa béo tiến dâng.
Tay trái nàng cầm chiếc cọc,
Tay phải nàng cầm cái búa của các lao công;
Nàng đóng vào đầu Si-sê-ra một nhát,
Đập bể đầu và đâm thủng màng tang.
Hắn gục xuống, ngã quỵ,
Nằm bất động nơi chân nàng;
Hắn gục xuống nơi chân nàng, ngã quỵ;
Hắn gục xuống nơi nào, hắn ngã chết ngay nơi đó.
Mẹ của Si-sê-ra ngóng trông qua cửa sổ,
Bà nhìn qua màng thưa che cửa, hỏi rằng:
‘Tại sao xe chiến mã của con ta chưa về?
Tại sao tiếng vó ngựa của chiến xa con ta chưa vang dội?’
Những nữ nhân hầu hạ khôn khéo lựa lời giải đáp,
Chính bà cũng tự trả lời và thầm nghĩ:
‘Há chẳng phải chúng đã kiếm được và đang chia nhau chiến lợi phẩm đấy sao?
Một hay hai phụ nữ cho mỗi chàng chiến sĩ;
Những chiến lợi phẩm bằng vải nhuộm thì dành cho Si-sê-ra,
Ô những tấm vải thêu và nhuộm đẹp,
Há chẳng phải hai tấm vải thêu và nhuộm đẹp
Sẽ là chiến lợi phẩm làm khăn choàng cổ cho ta hay sao?’
Lạy CHÚA, nguyện tất cả những kẻ thù của Ngài đều bị diệt vong như vậy!
Nguyện những kẻ yêu mến Ngài sẽ giống như
Mặt trời mọc lên rạng rỡ.”
Rồi xứ được hòa bình trong bốn mươi năm.
Dân Y-sơ-ra-ên Bị Dân Ma-đi-an Đàn Áp
Dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA, và Ngài phó họ vào tay dân Ma-đi-an bảy năm. Tay của dân Ma-đi-an thắng hơn dân Y-sơ-ra-ên. Vì cớ dân Ma-đi-an nên người Y-sơ-ra-ên phải sống trốn tránh trong các rừng núi, hang hóc, hoặc trong các thành trì kiên cố. Mỗi khi người Y-sơ-ra-ên ra gieo giống, thì dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và các dân phương đông kéo đến tấn công. Chúng dựng trại đóng quân đối nghịch họ. Chúng phá hủy tất cả các nông phẩm cho đến tận vùng Ga-xa, không chừa lại một thứ gì trong Y-sơ-ra-ên, kể cả chiên, bò, và lừa. Bởi vì chúng và những đàn súc vật của chúng kéo đến và dựng trại đông như cào cào. Người ta và lạc đà nhiều vô số, không thể đếm hết được. Chúng chiếm lấy xứ và phá hủy tất cả. Vậy, vì cớ dân Ma-đi-an mà người Y-sơ-ra-ên trở nên đói khổ rất thê thảm. Dân Y-sơ-ra-ên bèn khóc van cùng CHÚA xin cứu giúp.
Khi dân Y-sơ-ra-ên kêu cầu cùng CHÚA vì cớ dân Ma-đi-an, CHÚA bèn sai một vị tiên tri đến với dân Y-sơ-ra-ên phán bảo: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán như vầy: ‘Ta đã đem các ngươi lên khỏi xứ Ai-cập, và đem các ngươi ra khỏi nhà nô lệ. Ta đã giải thoát các ngươi khỏi tay của người Ai-cập, và khỏi tay của những kẻ áp bức các ngươi. Ta đã đuổi chúng đi khỏi trước mặt các ngươi và ban cho các ngươi xứ của chúng, Ta đã phán: Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, các ngươi chớ thờ phượng các thần của dân A-mô-rít trong xứ các ngươi cư ngụ.’ Nhưng các ngươi nào có nghe theo tiếng Ta.”
CHÚA Kêu Gọi Ghi-đê-ôn
Bấy giờ thiên sứ của CHÚA đến ngồi dưới cây sồi của Óp-ra, trong đất của Giô-ách, thuộc gia tộc A-bi-ê-xê-rít. Ghi-đê-ôn, con trai Giô-ách, đang đập lúa nơi bàn ép rượu, để tránh khỏi dân Ma-đi-an. Thiên sứ của CHÚA hiện ra với ông và phán: “Nguyện CHÚA ở cùng ngươi, hỡi người chiến sĩ anh dũng.” Ghi-đê-ôn đáp: “Thưa Ngài, nếu CHÚA ở cùng chúng tôi, thì tại sao chúng tôi phải ra nông nỗi này? Nào những việc lạ lùng mà các tổ phụ chúng tôi thường kể lại cho chúng tôi nghe ở đâu? Họ bảo rằng: ‘CHÚA há chẳng đem các ngươi lên khỏi xứ Ai-cập hay sao?’ Nhưng bây giờ CHÚA đã bỏ chúng tôi, và phó chúng tôi vào tay dân Ma-đi-an.” CHÚA quay lại cùng ông và phán: “Hãy đi, dùng sức ngươi sẵn có mà giải thoát Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay dân Ma-đi-an. Ta há chẳng đang sai ngươi đó sao?” Ông đáp: “Nhưng thưa Ngài, làm sao tôi có thể giải thoát dân Y-sơ-ra-ên được? Gia tộc tôi là gia tộc nhỏ nhất trong bộ tộc Ma-na-se, còn trong gia đình tôi thì tôi là kẻ nhỏ nhất.” CHÚA phán với ông: “Nhưng Ta sẽ ở với ngươi, và ngươi sẽ đánh bại dân Ma-đi-an như đánh một người vậy.” Ghi-đê-ôn nói: “Nếu tôi được ơn trước mặt Ngài, thì xin Ngài hãy cho tôi một dấu lạ, để chứng tỏ rằng chính Ngài đã phán với tôi. Xin Ngài đừng rời khỏi đây cho đến khi tôi trở lại, mang theo tế lễ, kính dâng lên Ngài.” Ngài phán: “Ta sẽ ở đây cho đến khi ngươi trở lại.” Vậy Ghi-đê-ôn trở về nhà, bắt một con dê con, lấy mười ký bột làm bánh không men. Ông lấy thịt để vào một cái giỏ, và để cháo trong nồi, rồi đem tất cả các món ấy đến dưới cây sồi mà dâng cho Ngài. Thiên sứ của CHÚA phán: “Hãy lấy thịt và bánh không men để trên tảng đá này, rồi đổ cháo lên.” Ghi-đê-ôn làm y như vậy. Thiên sứ của CHÚA giơ tay ra, dùng đầu gậy cầm nơi tay đụng vào thịt và bánh không men; lửa từ tảng đá phựt lên thiêu đốt thịt và bánh không men, đồng thời thiên sứ của CHÚA cũng biến mất. Ghi-đê-ôn liền nhận biết rằng ấy là thiên sứ của CHÚA, ông nói: “Ôi lạy CHÚA, là CHÚA Toàn Năng! Thôi, con chắc sẽ chết, vì con đã gặp thiên sứ của CHÚA mặt đối mặt.” Nhưng CHÚA phán: “Hãy an tâm. Đừng sợ. Ngươi sẽ không chết đâu.” Ghi-đê-ôn liền xây một bàn thờ cho CHÚA tại đó và đặt tên là: CHÚA, Đấng Ban Bình An. Bàn thờ ấy vẫn còn ở Óp-ra, trong đất của A-bi-ê-xê-rít, cho đến ngày nay.
Ghi-đê-ôn Phá Đổ Bàn Thờ Ba-anh
Đêm đó CHÚA phán với ông: “Hãy bắt con bò đực của cha ngươi, và một con bò đực thứ nhì bảy tuổi, rồi cho kéo đổ bàn thờ Ba-anh của cha ngươi xuống. Cũng hãy chặt bỏ cây trụ A-sê-ra ở bên cạnh nó xuống. Sau đó hãy xây một bàn thờ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của ngươi trên vầng đá này, theo như cách đã ấn định; rồi bắt con bò đực thứ nhì làm tế lễ thiêu, và lấy gỗ của cây trụ A-sê-ra làm củi đốt.” Vậy, Ghi-đê-ôn chọn mười đầy tớ để giúp ông làm y như lời CHÚA dặn. Vì ông sợ những người khác trong gia đình và dân thành trông thấy, nên thay vì làm ban ngày, ông đã thực hiện việc đó trong ban đêm. Sáng hôm sau, khi dân thành thức dậy, họ thấy bàn thờ của Ba-anh đã đổ xuống, trụ tượng của A-sê-ra đã bị đốn mất, con bò thứ nhì đã được dâng trên bàn thờ vừa mới được xây. Họ bèn hỏi nhau: “Kẻ nào đã làm việc này?” Sau khi dò la và tra xét, họ được báo: “Ấy là Ghi-đê-ôn, con của Giô-ách, đã làm điều đó.” Dân thành liền nói với Giô-ách: “Hãy đem con ông ra đây, để nó phải chết. Vì nó đã dám phá dỡ bàn thờ của Ba-anh, và đốn bỏ trụ tượng của A-sê-ra ở bên cạnh.” Nhưng Giô-ách trả lời những người đương đầu với ông: “Có phải các người muốn đấu tranh cho Ba-anh chăng? Các người muốn binh vực cho nó phải không? Ai muốn đấu tranh cho nó thì sẽ bị xử tử sáng nay. Vì nếu nó là thần thì hãy để nó tự đấu tranh cho nó đi. Bởi vì bàn thờ của nó đã bị phá đổ kia mà.” Vì thế, ngày hôm đó người ta gọi Ghi-đê-ôn là Giê-ru-ba-anh; vì nói rằng: “Thôi để cho Ba-anh đấu tranh với ông ấy đi.” Vì ông ấy đã phá đổ bàn thờ của nó kia mà.
Ghi-đê-ôn Mộ Binh
Bấy giờ tất cả dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và các dân tộc ở phương đông hiệp lại với nhau. Chúng vượt qua sông Giô-đanh và hạ trại ở thung lũng Ghít-rê-ên. Thần của CHÚA cảm động Ghi-đê-ôn; ông thổi kèn triệu tập, và gia tộc A-bi-ê-xê-rít đều nhóm lại theo ông. Ông sai sứ giả đến khắp địa phận Ma-na-se, và họ cùng nhau hiệp lại theo ông. Ông cũng sai sứ giả đến A-se, Sa-bu-luân, và Nép-ta-li. Họ thảy đều đi lên và hiệp với ông.
Dấu Hiệu Tấm Lông Chiên
Bấy giờ Ghi-đê-ôn thưa với Đức Chúa Trời rằng: “Để biết chắc là Ngài muốn dùng tay con giải thoát dân Y-sơ-ra-ên, như lời Ngài đã phán, thì con xin để một tấm lông chiên trong sân đập lúa; nếu sương chỉ đọng trên tấm lông chiên mà thôi, còn đất xung quanh đều khô ráo, thì con biết rằng Ngài sẽ dùng tay con để giải thoát dân Y-sơ-ra-ên như lời Ngài đã phán.” Việc bèn xảy ra như vậy. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, ra lấy tấm lông chiên mà vắt, sương từ trong tấm lông chiên chảy ra, hứng đầy một chén. Ghi-đê-ôn lại thưa với Đức Chúa Trời: “Xin Ngài đừng nổi giận cùng con. Xin cho con thưa thêm một lần nữa. Xin cho con thử lại với tấm lông chiên một lần nữa. Lần này, xin cho chỉ tấm lông chiên là khô, còn đất xung quanh sẽ phủ đầy sương.” Đêm đó, Đức Chúa Trời làm y như vậy. Chỉ có tấm lông chiên là khô ráo, còn đất xung quanh đều đọng sương ướt đẫm.
Ghi-đê-ôn Đánh Bại Dân Ma-đi-an
Sáng hôm sau, Giê-ru-ba-anh7:1 Tức là Ghi-đê-ôn cùng tất cả quân binh dậy sớm và đến hạ trại bên suối Ha-rốt; còn trại của dân Ma-đi-an thì nằm trong thung lũng, về phía bắc của họ, dưới chân đồi Mô-rê.
CHÚA phán với Ghi-đê-ôn rằng: “Đạo binh theo ngươi đông quá. Nếu Ta phó dân Ma-đi-an vào tay họ, thì dân Y-sơ-ra-ên sẽ tự phụ mà nói rằng: ‘Chính tay ta đã tự giải thoát lấy ta.’ Vậy bây giờ ngươi hãy truyền lệnh trong đạo binh rằng: ‘Ai cảm thấy run sợ và kinh hãi, thì hãy rời khỏi núi Ga-la-át mà trở về nhà đi.’ ” Thế là có hai mươi hai ngàn người ra về, chỉ còn mười ngàn người ở lại.
CHÚA lại phán với Ghi-đê-ôn: “Đạo binh hãy còn đông quá. Hãy bảo họ xuống uống nước, rồi tại đó Ta sẽ lựa ra cho ngươi. Khi Ta phán: ‘Kẻ này được đi với ngươi,’ thì kẻ ấy sẽ đi với ngươi; và khi Ta phán: ‘Kẻ này không được đi với ngươi,’ thì kẻ ấy sẽ không được đi với ngươi.”
Vậy, ông truyền cho đạo binh xuống uống nước; và CHÚA phán với Ghi-đê-ôn rằng: “Tất cả những kẻ dùng lưỡi liếm nước như chó uống nước, thì ngươi hãy để họ ra một bên. Còn những ai cúi xuống uống nước, nhưng lấy tay bụm mà đưa lên miệng, thì ngươi hãy để họ ra một bên.” Chỉ có ba trăm người là bụm nước và đưa lên miệng uống, còn tất cả đều hụp xuống mà uống nước.
CHÚA lại phán với Ghi-đê-ôn: “Ta sẽ dùng ba trăm người bụm tay uống nước đó mà giải cứu các ngươi, và Ta sẽ phó dân Ma-đi-an vào tay ngươi. Hãy cho tất cả những người khác trở về nhà.” Vậy Ghi-đê-ôn cho tất cả những người Y-sơ-ra-ên ấy về nhà, mà chỉ giữ lại có ba trăm người. Rồi họ nhận lương thực và cầm những chiếc kèn trong tay. Vả, trại quân của dân Ma-đi-an nằm trong thung lũng, ở phía dưới.
Đêm đó, CHÚA phán với Ghi-đê-ôn: “Hãy đứng dậy, xuống tấn công trại quân Ma-đi-an, vì Ta sẽ phó nó vào tay ngươi. Nhưng nếu ngươi sợ tấn công, thì hãy dẫn Phu-ra, đầy tớ ngươi, rồi cùng nó đi xuống đó. Ngươi hãy nghe điều chúng nói, rồi sau đó ngươi sẽ được phấn chí mà tấn công trại giặc.” Vậy Ghi-đê-ôn cùng Phu-ra, đầy tớ ông, lẻn tới gần trạm canh, ở đầu trại. Vả, dân Ma-đi-an, dân A-ma-léc, và các dân tộc phương Đông dựng trại trong thung lũng đông như cào cào; lạc đà của chúng đông vô số, chẳng khác gì cát nơi bờ biển. Khi Ghi-đê-ôn đến, ông nghe một tên lính nói với bạn đồng đội hắn rằng: “Tôi nằm mơ, thấy có một cái bánh lúa mạch tròn lăn vào trại quân Ma-đi-an. Bánh ấy đụng vào trại làm cho trại bật ngã, khiến nó lật ngược từ trên xuống dưới, và làm cho trại bị sụp đổ.” Người bạn hắn đáp: “Điềm đó chẳng khác gì gươm của Ghi-đê-ôn, con trai Giô-ách, người Y-sơ-ra-ên. Trời đã phó dân Ma-đi-an và tất cả đội quân này vào tay người ấy rồi.”
Khi Ghi-đê-ôn nghe được điềm chiêm bao và nghe rõ lời giải nghĩa thì ông thờ lạy Đức Chúa Trời; rồi ông trở về trại quân Y-sơ-ra-ên và nói: “Hãy thức dậy! Vì CHÚA đã phó đội quân của dân Ma-đi-an vào tay anh em.” Sau khi ông chia ba trăm người thành ba đội, ông trao cho mỗi người một chiếc kèn, một bình không, và một cây đuốc trong bình; rồi ông bảo họ: “Anh em hãy để ý tôi. Hễ tôi làm sao thì anh em làm vậy. Khi tôi đến gần trại giặc, tôi làm thể nào thì anh em cứ làm theo thể ấy. Khi tôi và những người theo tôi thổi kèn, thì anh em cũng hãy thổi kèn quanh trại giặc và la lớn rằng: Vì CHÚA và vì Ghi-đê-ôn!”
Vậy Ghi-đê-ôn và một trăm người đi với ông đến vòng đai trại giặc vào khoảng giữa khuya, ngay sau khi đổi gác. Họ thổi kèn, đập vỡ bình cầm sẵn trong tay. Vậy cả ba đội cùng thổi kèn, đập vỡ bình, tay trái giơ cao ngọn đuốc, tay phải cầm kèn và thổi, xong họ la lớn: “Hãy tuốt gươm vì CHÚA và vì Ghi-đê-ôn!” Ai nấy cứ đứng y tại vị trí mình, quanh trại giặc. Bấy giờ cả trại quân đều vỡ chạy; chúng la hét và chạy trốn. Khi họ thổi ba trăm chiếc kèn, CHÚA khiến quân giặc rút gươm chém giết lẫn nhau, và cả đội quân tàn sát lẫn nhau. Tàn quân chạy thoát được trốn đến tận Bết Si-ta, về hướng Xê-rê-đa, và tận biên giới A-bên Mê-hô-la, gần Ta-bát. Dân Y-sơ-ra-ên từ các bộ tộc Nép-ta-li, A-se, và Ma-na-se được tin báo, bèn cùng nhau đuổi giết dân Ma-đi-an.
Bấy giờ Ghi-đê-ôn sai các sứ giả đến khắp miền núi Ép-ra-im kêu gọi: “Xin hãy xuống đánh dân Ma-đi-an và chiếm các chỗ nước cạn của sông Giô-đanh cho đến Bết Ba-ra, và giữ dọc theo bờ sông.” Vậy tất cả các nam đinh của Ép-ra-im kéo nhau ra. Họ chiếm giữ những chỗ nước cạn của sông Giô-đanh cho đến Bết Ba-ra, và giữ dọc theo bờ sông. Họ bắt sống hai tướng của quân Ma-đi-an là Ô-rếp và Xê-ép. Họ giết Ô-rếp ở tảng đá Ô-rếp, và giết Xê-ép ở vựa ép rượu Xê-ép. Họ tiếp tục truy đuổi dân Ma-đi-an và mang thủ cấp của Ô-rếp và Xê-ép đến trình cho Ghi-đê-ôn lúc ấy đang ở bên kia sông Giô-đanh.
Ghi-đê-ôn Chiến Thắng Và Báo Thù
Bấy giờ người Ép-ra-im đến bắt bẻ Ghi-đê-ôn rằng: “Tại sao ông đối xử với chúng tôi như vậy? Tại sao khi đi đánh dân Ma-đi-an mà ông không cho gọi chúng tôi?” Họ đả kích Ghi-đê-ôn nặng nề. Nhưng Ghi-đê-ôn đáp lời họ: “Những gì tôi làm có thể sánh được với anh em sao? Há chẳng phải nho mót của Ép-ra-im còn hơn cả một mùa nho của A-bi-ê-se sao? Đức Chúa Trời đã phó vào tay anh em hai tướng lãnh của dân Ma-đi-an là Ô-rếp và Xê-ép, thì những gì tôi đã làm có thể sánh được với anh em sao?” Khi nghe ông nói thế, cơn giận của họ bèn dịu xuống. Ghi-đê-ôn đến sông Giô-đanh và qua sông xong, ông và ba trăm người đi với ông đều mệt đuối nhưng họ vẫn cố sức truy đuổi. Ghi-đê-ôn đến nói với dân Su-cốt rằng: “Xin các ông cho những người theo tôi ít bánh, vì họ kiệt sức quá rồi, và tôi đang truy kích Xê-bách và Xanh-mu-na, là các vua của dân Ma-đi-an.” Nhưng các quan chức của Su-cốt đáp: “Ông đã cầm chắc trong tay ông sinh mạng của Xê-bách và Xanh-mu-na chưa mà chúng tôi phải lấy bánh cho binh lính ông ăn?” Ghi-đê-ôn đáp: “Nếu vậy thì khi CHÚA đã phó Xê-bách và Xanh-mu-na vào tay tôi, tôi sẽ dùng gai trong sa mạc và gai thạch nam mà xẻ thịt các người ra.” Từ đó ông tiến lên Phê-nu-ên, và cũng hỏi dân Phê-nu-ên như vậy, nhưng họ cũng đáp lại với ông giống như dân Su-cốt đã đáp. Cho nên ông nói với dân Phê-nu-ên rằng: “Khi tôi trở về trong chiến thắng, tôi sẽ phá tan cái tháp này.” Bấy giờ Xê-bách và Xanh-mu-na đang ở tại Cát-ca với khoảng mười lăm ngàn binh lính. Đó là quân số còn lại của đại quân các dân phương đông; vì một trăm hai mươi ngàn người cầm gươm đã ngã chết. Ghi-đê-ôn đi lên theo ngả của dân du mục, về phía đông của Nô-bách và Giô-bê-ha, và tấn công vào đội quân trong khi họ không ngờ. Xê-bách và Xanh-mu-na liền chạy trốn; ông đuổi theo họ và bắt được hai vua của dân Ma-đi-an, là Xê-bách và Xanh-mu-na, nên tàn quân liền rối loạn. Ghi-đê-ôn con của Giô-ách từ chiến trường trở về, theo ngả đèo Hê-re. Ông bắt được một cậu thiếu niên, là dân ở Su-cốt, và tra hỏi cậu ấy. Cậu ấy liền kê khai cho Ghi-đê-ôn tên của tất cả quan chức và trưởng lão của thành Su-cốt, gồm bảy mươi bảy người. Sau đó Ghi-đê-ôn đến với dân Su-cốt và nói: “Đây là Xê-bách và Xanh-mu-na, là những người mà các ông đã mỉa mai tôi rằng ‘Ông đã cầm chắc trong tay ông sinh mạng của Xê-bách và Xanh-mu-na chưa mà chúng tôi phải lấy bánh cho binh lính mệt đuối của ông ăn?’ ” Vậy ông bắt các trưởng lão trong thành, rồi lấy gai trong sa mạc và gai thạch nam mà đánh phạt họ, tức là những người ở Su-cốt. Ông cũng phá hủy tháp Phê-nu-ên và giết những người ở thành ấy. Kế đó Ghi-đê-ôn hỏi Xê-bách và Xanh-mu-na: “Những người các ngươi giết ở Tha-bô như thế nào?” Họ đáp: “Họ cũng giống như ngươi, người nào cũng vậy, trông như những vương tử.” Ông đáp: “Họ là anh em ta, các con trai của mẹ ta. Thật như CHÚA hằng sống, nếu các ngươi để cho họ còn sống thì ta sẽ không giết các ngươi đâu.” Rồi ông bảo Giê-the, con trưởng nam ông: “Con hãy lại giết họ đi.” Nhưng cậu thiếu niên không dám rút gươm ra, vì cậu ấy sợ, bởi cậu còn niên thiếu. Xê-bách và Xanh-mu-na bèn nói: “Chính ngươi hãy lại giết chúng ta, vì người sao thì sức vậy.” Vậy Ghi-đê-ôn tiến đến và giết Xê-bách và Xanh-mu-na; rồi ông lấy những vật hình lưỡi liềm đeo nơi cổ các lạc đà của họ.
Ghi-đê-ôn Đúc Ê-phót
Bấy giờ dân Y-sơ-ra-ên nói với Ghi-đê-ôn rằng: “Hãy cai trị chúng tôi, ông, con trai ông, và cháu của ông nữa. Vì ông đã giải thoát chúng tôi khỏi tay dân Ma-đi-an.” Ghi-đê-ôn đáp lời họ: “Tôi sẽ không cai trị anh em, con trai tôi cũng sẽ không cai trị anh em. CHÚA sẽ cai trị anh em.” Rồi Ghi-đê-ôn nói tiếp: “Tôi có một lời yêu cầu anh em. Xin mỗi người hãy cho tôi một vòng đeo tai mà anh em đã lấy làm chiến lợi phẩm.”8:24 Vì quân giặc đều đeo khoen tai bằng vàng, bởi họ là dòng dõi của Ích-ma-ên Họ đáp: “Chúng tôi rất sẵn sàng cho ông.” Vậy họ trải một áo choàng ra, rồi mỗi người ném vào một vòng đeo tai mà họ đã lấy làm chiến lợi phẩm. Số vàng của các vòng đeo tai mà Ghi-đê-ôn xin, cân được một ngàn bảy trăm sê-ken,8:26 Khoảng 19.5kg không kể những lưỡi liềm, những trân châu, những bộ vương phục màu tím của các vua Ma-đi-an, và những kiềng trang sức trên cổ lạc đà của họ. Ghi-đê-ôn lấy những vàng đó đúc thành một ê-phót, rồi đặt nó trong thành của ông, tại Óp-ra. Toàn dân Y-sơ-ra-ên phạm tội bất trung với Chúa bằng cách thờ phượng nó, và nó đã trở thành một cái bẫy cho Ghi-đê-ôn và gia đình ông. Vậy dân Ma-đi-an bị khuất phục trước dân Y-sơ-ra-ên, và chúng chẳng ngất đầu lên được nữa. Trọn đời của Ghi-đê-ôn, xứ được bình yên trong bốn mươi năm.
Ghi-đê-ôn Qua Đời
Giê-ru-ba-anh, con trai của Giô-ách trở về sống trong nhà ông. Ông có bảy mươi con trai; ấy là những con ruột của ông, vì ông có nhiều vợ. Một tỳ thiếp của ông, quê ở Si-chem, cũng sinh cho ông một con trai, mà ông đặt tên là A-bi-mê-léc. Rồi Ghi-đê-ôn, con trai của Giô-ách, qua đời trong tuổi già nua, và người ta chôn ông trong mộ của cha ông là Giô-ách tại Óp-ra, thuộc địa phận của gia tộc A-bi-ê-xê-rít.
Vừa khi Ghi-đê-ôn qua đời, dân Y-sơ-ra-ên liền sa ngã và phạm tội bất trung vì đi theo các thần Ba-anh. Họ tôn Ba-anh Bê-rít làm thần của họ. Dân Y-sơ-ra-ên chẳng nhớ rằng CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, là Đấng đã giải cứu họ khỏi tay quân thù tứ phía. Họ cũng chẳng bày tỏ lòng trung thành với gia đình của Giê-ru-ba-anh, tức Ghi-đê-ôn, để đền đáp những điều tốt đẹp mà ông đã làm cho Y-sơ-ra-ên.
A-bi-mê-léc Mưu Đồ Soán Vị
Bấy giờ A-bi-mê-léc, con của Giê-ru-ba-anh đến Si-chem gặp các cậu và những bà con bên ngoại của hắn và nói với họ rằng: “Hãy đi hỏi tất cả những thủ lãnh ở Si-chem xem: ‘Điều nào là tốt hơn cho các ông, tất cả bảy mươi con trai của Giê-ru-ba-anh cai trị các ông, hay chỉ cần một người cai trị các ông thôi?’ Hãy nhớ rằng tôi là máu mủ ruột thịt của các ông đó.” Vậy những bà con bên ngoại của hắn lặp lại những lời này để ủng hộ hắn trước mặt những thủ lãnh của Si-chem. Lòng họ bèn nghiêng theo A-bi-mê-léc, vì họ nói: “Ông ấy là anh em của chúng ta mà.” Họ bèn cho A-bi-mê-léc bảy mươi miếng bạc lấy từ quỹ trong đền thờ của Ba-anh Bê-rít. A-bi-mê-léc dùng số bạc đó mướn những kẻ du đãng hoang đàng đi theo hắn. Hắn trở về nhà cha hắn ở Óp-ra, và trên một tảng đá giết chết bảy mươi anh em của hắn, là các con trai của Giê-ru-ba-anh; ngoại trừ Giô-tham, là con trai út của Giê-ru-ba-anh, còn sống sót, vì người ấy ẩn trốn. Bấy giờ tất cả các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô họp nhau lại tại trụ đá cạnh cây sồi ở Si-chem và lập A-bi-mê-léc làm vua.
Ngụ Ngôn Về Các Cây Cối
Khi Giô-tham nghe được tin ấy, ông bèn đi lên đỉnh đèo trên núi Ghê-ri-xim, cất tiếng lớn và nói rằng:
“Hỡi những thủ lãnh của Si-chem, xin hãy nghe tôi,
Hầu cho Đức Chúa Trời có thể nghe các ông:
Các cây cối đến với nhau để xức dầu
Cho một kẻ làm vua trên chúng.
Chúng đến nói với cây ô-liu rằng:
‘Hãy trị vì chúng tôi.’
Cây ô-liu đáp:
‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất dầu của ta,
Là dầu các thần linh và các vua chúa tôn quý,
Mà đi dao động trên các cây cối sao?’
Các cây bèn đến cây vả và nói:
‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’
Nhưng cây vả đáp:
‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất sự ngọt ngào của ta,
Và những trái ngọt ngon của ta,
Mà đi dao động trên các cây cối sao?’
Các cây bèn đến cây nho và nói:
‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’
Nhưng cây nho đáp:
‘Lẽ nào ta ngừng sản xuất rượu nho của ta,
Là rượu làm cho các thần linh và các phàm nhân phấn khởi,
Mà đi dao động trên các cây cối sao?’
Các cây bèn đến cây gai và nói:
‘Xin hãy đến và trị vì chúng tôi.’
Cây gai bèn nói với chúng:
‘Nếu các ngươi thật lòng muốn xức dầu cho ta làm vua trên các ngươi,
Thì hãy đến núp dưới bóng của ta;
Nếu không, lửa từ gai ta sẽ phát ra
Thiêu rụi những cây tùng hương của Li-ban.’
Vậy bây giờ, nếu các ông bởi lòng thành và danh dự mà tôn A-bi-mê-léc lên làm vua, nếu các ông đối xử tốt với Giê-ru-ba-anh và gia đình người, và báo đáp cho người xứng đáng với những việc người đã làm, vì cha tôi đã chiến đấu cho các ông, xả thân cho các ông, và giải cứu các ông khỏi tay dân Ma-đi-an; nhưng bây giờ các ông nổi lên nghịch lại gia đình của cha tôi, giết hại các con trai người, bảy mươi người chết trên một tảng đá, rồi tôn A-bi-mê-léc, con trai của tỳ thiếp người lên làm vua trên các thủ lãnh của Si-chem, bởi vì hắn là bà con của các ông, vậy ngày nay, nếu các ông bởi lòng thành và danh dự mà đối với Giê-ru-ba-anh và gia đình người, thì xin các ông cứ vui vẻ với A-bi-mê-léc, và hãy để hắn vui vẻ với các ông; nhưng nếu không phải, thì nguyện lửa từ A-bi-mê-léc thoát ra thiêu hủy các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô; và nguyện lửa từ các thủ lãnh của Si-chem và Bết Mi-lô thiêu hủy A-bi-mê-léc.” Nói xong, Giô-tham chạy trốn đến xứ Bê-e. Ông trốn đến đó vì sợ anh của ông là A-bi-mê-léc.
A-bi-mê-léc Thất Bại
A-bi-mê-léc cai trị trên Y-sơ-ra-ên được ba năm. Bấy giờ Chúa cho phép một tà linh đến giữa A-bi-mê-léc và các thủ lãnh của Si-chem; và các thủ lãnh của Si-chem sinh lòng phản bội A-bi-mê-léc. Điều này xảy ra để báo thù cho tội ác đối với bảy mươi con trai của Giê-ru-ba-anh, và máu của họ phải đổ lại trên A-bi-mê-léc, là anh em của họ, và là kẻ đã giết họ, đồng thời cũng đổ lại trên các thủ lãnh của Si-chem là những người đã tiếp tay cho A-bi-mê-léc để giết hại các anh em của hắn. Vậy, để bày tỏ sự chống đối của họ, các thủ lãnh của Si-chem tổ chức những cuộc phục kích ở các đỉnh đèo. Họ cướp giựt những khách bộ hành qua lại các nơi đó; và người ta báo cáo cho A-bi-mê-léc biết chuyện này.
Lúc ấy, Ga-anh con trai Ê-bết, cùng với anh em hắn dọn vào Si-chem. Các thủ lãnh của Si-chem để lòng tin tưởng nơi hắn. Chúng ra đồng, hái nho, ép rượu, và tổ chức tiệc mừng. Rồi chúng vào đền thờ thần của chúng mà ăn, uống và chế giễu A-bi-mê-léc. Ga-anh con trai Ê-bết nói: “A-bi-mê-léc là ai, và chúng ta là ai trong thành Si-chem này mà phải phục vụ hắn? Há chẳng phải con trai của Giê-ru-ba-anh và Xê-bun là quan viên của hắn phải phục vụ những người của Ha-mô, tổ phụ của Si-chem hay sao? Tại sao chúng ta phải phục vụ hắn chứ? Nếu dân này mà ở dưới quyền tôi, thì tôi sẽ dẹp bỏ hắn ngay. Tôi sẽ bảo A-bi-mê-léc rằng, ‘Có giỏi thì dẫn hết đạo quân của ngươi ra đây.’ ”
Khi Xê-bun, là quan viên cai trị thành, nghe những lời của Ga-anh con trai Ê-bên nói thế thì rất tức giận. Xê-bun mật sai các sứ giả đến gặp A-bi-mê-léc tại A-ru-ma và tâu rằng: “Đây này, Ga-anh con trai Ê-bết và anh em hắn đã kéo đến Si-chem; chúng đang xúi giục dân thành chống lại vua. Vậy bây giờ, ban đêm, xin vua và các đội quân của vua hãy đến và nằm phục kích ngoài đồng. Đợi khi hừng đông đến, vừa khi mặt trời mọc, xin hãy tấn công vào thành; rồi khi hắn và binh sĩ của hắn kéo ra đối địch, xin vua hãy xử chúng như thế nào tuỳ ý.”
Vậy A-bi-mê-léc và tất cả quân lính của hắn chỗi dậy, chia thành bốn đội, đang đêm tiến đến Si-chem, và nằm phục kích ngoài đồng. Khi Ga-anh con trai Ê-bết đi ra và đứng ở cổng thành, A-bi-mê-léc và các quân lính hắn từ chỗ phục kích chỗi dậy. Ga-anh thấy vậy, nói với Xê-bun: “Xem kìa, có người từ trên các đỉnh núi đi xuống!” Xê-bun đáp: “Ấy chỉ là bóng mát của núi mà ông tưởng là người ta đó thôi.” Ga-anh lại nói: “Xem kìa, có người đang từ giữa đồi tràn xuống, và một đội nữa đang từ hướng Cây Thầy Bói đổ về.” Bấy giờ Xê-bun nói: “Những lời phách lối của ông đâu rồi? Ông là người đã nói rằng: ‘A-bi-mê-léc là ai mà chúng ta phải phục vụ hắn?’ Có phải đây là đội quân mà ông đã coi thường chăng? Vậy bây giờ xin ông hãy ra đối địch với họ đi.”
Vậy Ga-anh đi trước các thủ lãnh của Si-chem và ra đối địch với A-bi-mê-léc. A-bi-mê-léc đánh đuổi hắn và hắn bỏ chạy trước mặt A-bi-mê-léc. Nhiều người đã tử thương và ngã xuống, đến tận cổng thành. Vậy A-bi-mê-léc ở tại A-ru-ma, còn Xê-bun đuổi Ga-anh và anh em hắn đi, và chúng không còn ở trong Si-chem nữa.
Hôm sau, dân thành đi ra đồng. Khi nghe tin báo, A-bi-mê-léc liền dẫn quân lính, chia làm ba đội, nằm phục kích ngoài đồng. Khi hắn thấy dân chúng từ trong thành đã ra đồng, hắn và quân lính hắn chỗi dậy đánh giết họ. A-bi-mê-léc và đội quân đi với hắn tiến vào án ngữ cổng thành, trong khi hai đội kia tấn công những người còn ở ngoài đồng và giết họ. Suốt ngày hôm đó, A-bi-mê-léc tấn công thành; hắn chiếm được thành, giết chết dân cư trong thành, phá hủy thành, và rắc muối trên nó.
Khi các thủ lãnh ở Tháp Si-chem nghe thế, họ liền rút vào chiến lũy của đền thờ thần Ên-Bê-rít. A-bi-mê-léc được báo tin rằng tất cả các thủ lãnh của Tháp Si-chem đang họp lại trong đó. A-bi-mê-léc liền lên núi Sanh-môn với đội quân hắn. Hắn lấy một cái rìu, chặt mấy nhánh cây, rồi vác lên vai. Xong hắn bảo các quân sĩ hắn rằng: “Các ngươi có thấy điều ta làm chăng. Lẹ lên. Hãy làm như ta làm.” Vậy mỗi binh sĩ đều chặt các nhánh cây, vác trên vai, đi theo A-bi-mê-léc xuống chất xung quanh chiến lũy và châm lửa đốt nó. Thế là tất cả những người trong Tháp Si-chem đều chết hết; ước chừng một ngàn người, cả nam lẫn nữ.
Sau đó A-bi-mê-léc kéo đến Thê-be, vây lấy Thê-be, và đánh hạ thành ấy. Nhưng trong thành có một cái tháp rất kiên cố. Tất cả dân chúng trong thành, cả nam lẫn nữ, và các thủ lãnh của thành đều rút vào trong tháp đó, khóa chặt cửa lại, rồi lên trên sân thượng của tháp. A-bi-mê-léc bèn tiến gần và tấn công tháp. Nhưng khi hắn lại gần cổng tháp để châm lửa đốt nó, thì có một phụ nữ lấy nửa trên của cối đá ném trúng đầu của hắn và làm hắn bị vỡ sọ. Hắn liền gọi người lính vác binh khí cho hắn và bảo: “Hãy rút gươm ra và giết ta ngay, kẻo người ta sẽ bảo: ‘Hắn đã bị một người đàn bà giết chết.’ ” Vậy người lính trẻ đâm hắn một nhát và hắn chết. Khi dân Y-sơ-ra-ên thấy rằng A-bi-mê-léc đã chết, họ đều trở về nhà mình. Như thế, Đức Chúa Trời đã báo trả cho A-bi-mê-léc tội ác mà hắn đã phạm cùng cha hắn, vì hắn giết chết bảy mươi anh em của hắn. Đức Chúa Trời cũng khiến mọi sự gian ác của dân Si-chem đổ lại trên đầu họ. Những lời nguyền rủa của Giô-tham, con trai Giê-ru-ba-anh đã đến trên chúng.
Thô-la
Sau A-bi-mê-léc có Thô-la con trai Phu-a, con cháu Đô-đô, thuộc bộ tộc Y-sa-ca, dấy lên để giải cứu Y-sơ-ra-ên. Ông sống tại Sa-mia, trên cao nguyên Ép-ra-im. Ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên hai mươi ba năm rồi qua đời và được chôn ở Sa-mia.
Giai-rơ
Sau ông có Giai-rơ ở Ga-la-át. Ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên hai mươi hai năm. Ông có ba mươi con trai, cỡi ba mươi con lừa, và quản trị ba mươi thôn trong vùng Ga-la-át, mà ngày nay người ta còn gọi là quận Giai-rơ. Khi Giai-rơ qua đời, người ta chôn ông tại Kha-môn.
Dân Phi-li-tin Và Dân Am-môn Hà Hiếp Dân Y-sơ-ra-ên
Sau việc ấy, dân Y-sơ-ra-ên làm điều ác trước mặt CHÚA. Họ phục vụ các thần Ba-anh, các thần Át-tạc-tê, các thần của dân A-ram, các thần của dân Si-đôn, các thần của dân Mô-áp, các thần của dân Am-môn, và các thần của dân Phi-li-tin. Họ lìa bỏ CHÚA và không phục vụ Ngài. Cơn thịnh nộ của CHÚA nổi lên cùng Y-sơ-ra-ên. Ngài phó họ vào tay dân Phi-li-tin và vào tay dân Am-môn. Bắt đầu từ năm đó chúng hà hiếp và chà đạp dân Y-sơ-ra-ên; rồi trong mười tám năm, chúng đàn áp dân Y-sơ-ra-ên ở phía đông sông Giô-đanh, trong vùng Ga-la-át, là xứ của dân A-mô-rít. Dân A-mô-rít cũng vượt qua sông Giô-đanh tiến đánh Giu-đa, Bên-gia-min, và nhà Ép-ra-im. Dân Y-sơ-ra-ên bị khốn đốn rất lớn.
Bấy giờ dân Y-sơ-ra-ên kêu van cùng CHÚA rằng: “Chúng con đã phạm tội nghịch lại CHÚA, chúng con đã lìa bỏ Đức Chúa Trời mà đi phục vụ các thần Ba-anh.”
CHÚA đáp cùng dân Y-sơ-ra-ên: “Khi dân Ai-cập, dân A-mô-rít, dân Am-môn, dân Phi-li-tin, dân Si-đôn, dân A-ma-léc và dân Ma-ôn đàn áp các ngươi và các ngươi kêu van cùng Ta xin giúp đỡ, Ta há không cứu các ngươi ra khỏi tay chúng sao? Nhưng các ngươi đã lìa bỏ Ta mà phục vụ các thần khác, vậy Ta sẽ không cứu giúp các ngươi nữa. Hãy đi kêu cầu các thần mà các ngươi đã chọn. Hãy để chúng cứu giúp các ngươi khi các ngươi bị hoạn nạn.”
Nhưng dân Y-sơ-ra-ên thưa cùng CHÚA: “Chúng con đã phạm tội. CHÚA muốn đối xử với chúng con thế nào cũng được, nhưng bây giờ xin CHÚA hãy giải cứu chúng con trước đã.” Họ loại bỏ tất cả các thần ngoại bang ra khỏi họ và họ trở lại phục vụ CHÚA. Lòng Ngài không thể chịu nổi sự đau khổ của Y-sơ-ra-ên nữa.
Khi dân Am-môn kéo quân ra hạ trại tại Ga-la-át, dân Y-sơ-ra-ên hiệp nhau lại và hạ trại tại Mích-ba. Những người lãnh đạo của dân Y-sơ-ra-ên ở Ga-la-át nói với nhau: “Ai tấn công dân Am-môn trước sẽ thành lãnh tụ của mọi người sống ở Ga-la-át.”
Giép-thê
Giép-thê, người Ga-la-át là một dũng sĩ. Mẹ ông là một gái điếm, cha ông là Ga-la-át. Vợ của Ga-la-át cũng sinh được các con trai. Khi các con trai này lớn lên, họ đuổi Giép-thê đi mà rằng: “Anh không được hưởng gia tài trong gia đình này, vì anh là con của người đàn bà khác.” Vậy Giép-thê lánh xa các em mình và định cư ở xứ Tóp. Có những kẻ lãng tử tụ hiệp theo ông.
Sau đó, dân Am-môn kéo ra giao chiến với dân Y-sơ-ra-ên. Các trưởng lão ở Ga-la-át đến xứ Tóp đem Giép-thê về. Họ nói với ông: “Xin về lãnh đạo chúng tôi để chống lại dân Am-môn.”
Nhưng Giép-thê đáp với họ: “Các ông há chẳng ghét tôi và đuổi tôi khỏi nhà cha tôi sao? Tại sao bây giờ khi gặp hoạn nạn các ông lại đến với tôi?”
Các trưởng lão của Ga-la-át đáp: “Xin ông bỏ qua chuyện cũ, bây giờ chúng tôi xin trở lại với ông, ông hãy đi với chúng tôi để chống cự dân Am-môn, và xin ông hãy làm thủ lãnh của tất cả chúng tôi ở Ga-la-át.”
Giép-thê đáp: “Các ông mời tôi về đánh lại dân Am-môn và nếu CHÚA phó dân Am-môn vào tay tôi, liệu các ông có thật sự để tôi làm thủ lãnh của các ông không?”
Các trưởng lão của Ga-la-át đáp: “Xin CHÚA làm chứng. Chúng tôi quả quyết sẽ làm như điều ông nói.” Vậy Giép-thê đi với các trưởng lão của Ga-la-át. Dân Ga-la-át lập ông làm thủ lãnh và thống soái của họ. Rồi trước mặt CHÚA, tại Mích-ba, ông lặp lại mọi lời ông đã giao kết.
Đoạn Giép-thê sai sứ đến vua Am-môn và hỏi: “Chúng tôi với vua có thù nghịch chi mà vua xua quân hãm đánh đất nước chúng tôi?”
Vua Am-môn trả lời các sứ giả của Giép-thê rằng: “Đó là vì khi dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập có chiếm lấy đất của ta, từ Ạt-nôn cho đến Gia-bốc và đến tận sông Giô-đanh. Vậy bây giờ hãy êm thắm trả lại cho ta.”
Giép-thê sai các sứ giả trở lại vua Am-môn, và nói: “Giép-thê nói như vầy: Y-sơ-ra-ên không có lấy đất của Mô-áp hoặc đất của dân Am-môn. Nhưng khi họ ra khỏi Ai-cập, họ đi qua đồng vắng để đến Hồng Hải, rồi tiếp tục đến Ca-đê. Khi ấy Y-sơ-ra-ên có sai các sứ giả đến thưa với vua của Ê-đôm rằng: ‘Xin cho phép chúng tôi đi ngang qua xứ của vua.’ Nhưng vua Ê-đôm không chấp thuận. Họ bèn sai các sứ giả đến với vua Mô-áp, nhưng vua ấy cũng chối từ. Vậy dân Y-sơ-ra-ên phải ở lại Ca-đê.
Sau đó, Y-sơ-ra-ên phải đi vào trong sa mạc, đi vòng bên ngoài lãnh thổ của Ê-đôm và Mô-áp, rồi đi dọc theo biên giới phía đông của nước Mô-áp, và hạ trại phía bên kia của Ạt-nôn. Họ không vào lãnh thổ của Mô-áp, vì Ạt-nôn là ranh giới của Mô-áp.
Kế đó, Y-sơ-ra-ên sai các sứ giả đến Si-hôn, là vua A-mô-rít, đang trị vì tại Hết-bôn, và tâu rằng: ‘Xin cho phép chúng tôi đi ngang qua nước của vua để vào xứ của chúng tôi.’ ” Tuy nhiên, Si-hôn không tin tưởng dân Y-sơ-ra-ên, nên không cho họ đi ngang qua nước mình. Đã thế vua còn triệu tập tất cả quân đội mình đến hạ trại tại Gia-hát để đánh Y-sơ-ra-ên.
Bấy giờ CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã phó Si-hôn và tất cả quân đội của vua ấy vào tay Y-sơ-ra-ên. Y-sơ-ra-ên đánh bại họ và chiếm toàn xứ của dân A-mô-rít đang sống. Họ tiếp thu cả xứ, từ Ạt-nôn cho đến Gia-bốc, từ trong sa mạc cho đến sông Giô-đanh.
Vậy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã đuổi dân A-mô-rít đi khỏi trước mặt dân Y-sơ-ra-ên của Ngài rồi, thì bây giờ vua lấy quyền gì mà đòi những đất ấy lại? Vua há chẳng nhận lấy những gì mà Kê-mốt, là thần của vua, ban cho vua sao? Cũng vậy, những gì mà CHÚA, là Thần của chúng tôi ban cho chúng tôi thì chúng tôi giữ lấy. Vua há có giỏi hơn Ba-lác, con trai Xếp-bô, là vua của Mô-áp chăng? Vua ấy có bao giờ dám tranh chấp hay chống chọi với Y-sơ-ra-ên chăng? Trong ba trăm năm, Y-sơ-ra-ên chiếm lấy Hết-bôn và những vùng phụ cận nó, A-rô-e và những vùng phụ cận nó, và tất cả các thành dọc theo Ạt-nôn, tại sao trong khoảng thời gian đó vua không lấy lại đi? Tôi không có làm gì sai với vua đâu, nhưng vua có làm sai với tôi đó, vì vua gây chiến chống tôi. Cầu xin CHÚA, là Đấng Phán Xét, xét xử sự tranh tụng giữa dân Y-sơ-ra-ên và dân Am-môn.
Tuy nhiên, vua của Am-môn không thèm để ý đến những lời của Giép-thê sai trình tâu với vua.
Bấy giờ Thần của CHÚA cảm động Giép-thê. Ông băng qua Ga-la-át và Ma-na-se, rồi vượt qua Mích-ba ở Ga-la-át, và từ đó ông tiến đánh dân Am-môn. Giép-thê khấn nguyện với CHÚA rằng: “Nếu CHÚA phó dân Am-môn vào tay con, thì khi con chiến thắng dân Am-môn trở về, bất cứ sinh vật nào từ cửa nhà con đi ra đón con, thì sinh vật ấy sẽ thuộc về CHÚA, con sẽ dâng nó làm tế lễ thiêu cho CHÚA.”
Rồi Giép-thê tiến đánh dân Am-môn, và CHÚA phó chúng vào tay ông. Ông đánh hạ hai mươi thành của chúng, từ A-rô-e cho đến vùng phụ cận của Min-nít, kéo dài đến A-bên Kê-ra-mim. Ấy là một cuộc bại trận rất lớn. Như thế, dân Am-môn bị khuất phục trước mặt dân Y-sơ-ra-ên.
Khi Giép-thê trở về nhà ông tại Mích-ba; kìa, con gái của ông cầm trống con đi ra nhảy múa đón mừng ông. Nàng lại là đứa con một. Ngoài nàng ra Giép-thê không có con trai hay con gái nào khác. Khi Giép-thê thấy nàng, thì ông xé áo ông và khóc: “Ôi, con của cha ơi, con làm cho cha đau khổ và khó xử biết bao; bởi vì cha có khấn nguyện với CHÚA, và cha không thể nuốt lời được.”
Nàng đáp: “Thưa cha, nếu cha đã có lời khấn nguyện với CHÚA, xin cha hãy làm cho con y như những lời cha đã khấn hứa. Vì bây giờ CHÚA đã báo trả những kẻ thù nghịch của cha là dân Am-môn rồi.” Đoạn, nàng nói với ông: “Nhưng xin cha cho con xin điều này. Xin cha cho con hai tháng để con rong chơi trên núi rừng và để con cùng với bạn bè con khóc cho sự đồng trinh của con.”
Ông đáp: “Con cứ đi.” Rồi ông để cho nàng đi hai tháng. Nàng và các bạn nàng lên núi và khóc cho sự đồng trinh của nàng. Sau hai tháng, nàng trở về với cha nàng, và ông đã làm cho nàng như lời ông đã khấn nguyện. Nàng chẳng hề biết một người nam nào.
Kể từ đó, trong Y-sơ-ra-ên có tục lệ, hằng năm các thiếu nữ trong Y-sơ-ra-ên dành bốn ngày để đi than khóc con gái của Giép-thê, người Ga-la-át.
Giép-thê Và Ép-ra-im
Người Ép-ra-im hiệp nhau lại, và vượt qua Xa-phôn, rồi sai người đến nói với Giép-thê: “Tại sao ông đi đánh dân Am-môn mà không gọi chúng tôi đi với ông? Chúng tôi sẽ đến đốt nhà ông và thiêu sống ông luôn.”
Giép-thê đáp lời họ: “Tôi và dân tôi có cuộc tranh chấp rất lớn với dân Am-môn, và dầu tôi đã kêu cứu với anh em, nhưng anh em chẳng đến tiếp cứu chúng tôi khỏi tay chúng. Khi tôi thấy anh em không đến giúp đỡ, thì tôi đã liều mạng vượt qua tấn công dân Am-môn, và CHÚA đã phó chúng vào tay tôi. Vậy thì tại sao ngày nay anh em lại đến đánh tôi?”
Giép-thê liền triệu tập người Ga-la-át để đánh lại người Ép-ra-im. Người Ga-la-át đánh bại người Ép-ra-im, bởi vì người Ép-ra-im có nói: “Bọn Ga-la-át các ngươi chỉ là thứ trốn chui trốn nhủi giữa Ép-ra-im và Ma-na-se thôi.” Người Ga-la-át chiếm giữ những chỗ cạn lội qua sông Giô-đanh để trở về Ép-ra-im, rồi khi có người Ép-ra-im sống sót nào đến nói: “Hãy cho tôi qua sông,” thì người Ga-la-át hỏi: “Ngươi có phải là người Ép-ra-im không?” Nếu người ấy bảo: “Không,” thì họ liền bảo người ấy: “Hãy nói: ‘Si-bô-lết,’ ” mà người ấy nói: “Xi-bô-lết,” vì người ấy không thể phát âm chính xác được, thì họ liền bắt người ấy và giết ngay tại chỗ cạn lội qua sông Giô-đanh. Vào thời ấy, đã có bốn mươi hai ngàn người Ép-ra-im bị giết chết. Giép-thê làm thẩm phán trên Y-sơ-ra-ên được sáu năm. Rồi Giép-thê, người Ga-la-át qua đời, và được chôn trong một thành ở Ga-la-át.
Íp-san, Ê-lơn, Và Áp-đôn
Sau ông, có Íp-san, người Bết-lê-hem xử đoán trong Y-sơ-ra-ên. Ông có ba mươi con trai và ba mươi con gái. Ông gả các con gái cho người ngoài dòng họ, và cưới ba mươi cô gái ngoài dòng họ làm vợ cho các con trai ông. Íp-san xử đoán trong Y-sơ-ra-ên được bảy năm Rồi Íp-san qua đời và được chôn tại Bết-lê-hem.
Sau ông, có Ê-lơn, người Sa-bu-luân, xử đoán trong Y-sơ-ra-ên mười năm. Rồi Ê-lơn, người Sa-bu-luân, qua đời và được chôn ở A-gia-lôn, trong đất của bộ tộc Sa-bu-luân.
Sau ông, có Áp-đôn, con trai Hi-lên, người Phi-ra-thôn xử đoán trong Y-sơ-ra-ên. Ông có bốn mươi con trai và ba mươi cháu trai. Họ cỡi bảy mươi con lừa. Ông xử đoán trong Y-sơ-ra-ên được tám năm. Rồi Áp-đôn, con trai Hi-lên, qua đời và được chôn ở Phi-ra-thôn, trong đất của bộ tộc Ép-ra-im, trong miền cao nguyên của dân A-ma-léc.
Sam-sôn Ra Đời
Dân Y-sơ-ra-ên lại làm điều ác trước mặt CHÚA, vậy CHÚA phó họ vào tay dân Phi-li-tin trong bốn mươi năm.
Có một người ở Xô-ra, tên là Ma-nô-a, thuộc bộ tộc Đan; vợ ông son sẻ, không con. Thiên sứ của CHÚA hiện ra cùng nàng và bảo: “Này, ngươi vốn son sẻ, không con, nhưng ngươi sẽ có thai và sinh một con trai. Vậy từ nay ngươi chớ uống rượu hay bất cứ thức uống gì có men, ngươi cũng đừng ăn vật gì không thanh sạch, vì ngươi sẽ thụ thai và sinh một con trai. Dao cạo sẽ không qua đầu nó, vì đứa trẻ sẽ thành một người Na-xi-rê, biệt riêng ra cho Đức Chúa Trời từ lúc sinh ra, và nó sẽ giải cứu Y-sơ-ra-ên ra khỏi tay dân Phi-li-tin.”
Nàng đi thuật lại cho chồng nàng và nói: “Một người của Đức Chúa Trời có đến gặp em. Diện mạo người ấy giống như thiên sứ của Đức Chúa Trời, rất đáng kinh sợ. Em không dám hỏi người ấy từ đâu đến, và người ấy cũng không nói cho em biết tên. Nhưng người ấy bảo em rằng: ‘Ngươi sẽ có thai và sinh một con trai. Vậy từ nay ngươi không được uống rượu hay uống bất cứ thức gì có men, và cũng không được ăn những vật không thanh sạch, vì đứa trẻ ấy sẽ thành người Na-xi-rê của Đức Chúa Trời từ lúc sinh ra cho đến khi qua đời.’ ”
Ma-nô-a bèn cầu nguyện với CHÚA: “Lạy CHÚA, con cầu xin Ngài, xin CHÚA sai người của Đức Chúa Trời đến với chúng con một lần nữa, để dạy chúng con biết cách nuôi dưỡng đứa bé sắp sinh như thế nào.”
Đức Chúa Trời nghe lời cầu nguyện của Ma-nô-a, và thiên sứ của CHÚA trở lại gặp người nữ khi nàng đang ở ngoài đồng; khi ấy Ma-nô-a chồng nàng không có ở đó. Nàng liền vội vàng chạy đi báo tin cho chồng rằng: “Người ấy đang ở đây! Người đã hiện ra với em hôm trước đó!”
Ma-nô-a chỗi dậy và đi theo vợ. Khi gặp người ấy, Ma-nô-a hỏi: “Thưa có phải ngài là người đã nói chuyện với vợ tôi không?”
Người đáp: “Chính ta.”
Vậy Ma-nô-a hỏi người: “Khi lời của ngài được ứng nghiệm, thì đứa trẻ phải giữ những quy luật gì trong đời sống và trong việc làm?”
Thiên sứ của CHÚA phán: “Vợ ngươi phải làm tất cả những gì ta đã bảo nàng. Nàng không được ăn bất cứ thức gì ra từ vườn nho, không được uống rượu, hay thức chi có men, cũng không được ăn vật chi không thanh sạch. Nàng phải làm tất cả những gì ta đã bảo nàng.”
Ma-nô-a thưa với thiên sứ của CHÚA: “Xin mời ngài ở nán lại để chúng tôi được dâng cho ngài một con dê con.”
Thiên sứ của CHÚA đáp: “Dầu ngươi có cầm ta lại, ta cũng không ăn bất cứ thức ăn nào của ngươi đâu. Nhưng nếu ngươi muốn dâng một tế lễ thiêu. Hãy dâng nó lên cho CHÚA.” Ma-nô-a không biết rằng đấng ông đang nói chuyện là thiên sứ của CHÚA.
Đoạn Ma-nô-a hỏi thiên sứ của CHÚA: “Danh ngài là chi để chúng tôi biết mà tôn kính khi lời của ngài được ứng nghiệm?”
Người đáp: “Tại sao ngươi hỏi danh ta? Danh ta quá sức hiểu biết của ngươi.”
Rồi Ma-nô-a bắt một con dê tơ, cùng tế lễ chay, đem để trên một tảng đá, dâng lên cho CHÚA. Và CHÚA đã làm một việc rất lạ lùng trước sự chứng kiến của Ma-nô-a và vợ ông: Đang khi ngọn lửa từ bàn thờ bốc lên trời, thì thiên sứ của CHÚA cũng thăng thiên theo ngọn lửa. Thấy vậy, Ma-nô-a và vợ ông liền sấp mặt xuống đất. Khi thấy thiên sứ của CHÚA không tái hiện nữa, Ma-nô-a nhận biết rằng ấy thật là thiên sứ của CHÚA.
Ma-nô-a nói với vợ: “Chắc vợ chồng chúng ta phải chết rồi. Vì chúng ta đã thấy Đức Chúa Trời.” Nhưng vợ ông nói: “Nếu CHÚA muốn giết chúng ta, thì Ngài đã không nhậm tế lễ thiêu và tế lễ chay từ tay chúng ta dâng, và Ngài cũng không bảo chúng ta tất cả những điều này như chúng ta đã được nghe bảo hôm nay.”
Nàng sinh một con trai và đặt tên là Sam-sôn. Đứa trẻ lớn lên và CHÚA ban phước cho. Thần của CHÚA bắt đầu tác động trên Sam-sôn khi ông đang ở Ma-ha-ne thuộc Đan, khoảng giữa Xô-ra và Ê-ta-ôn.
Sam-sôn Cưới Vợ
Sam-sôn đi xuống Thim-na và thấy một thiếu nữ Phi-li-tin ở đó. Khi trở về nhà, ông thưa với cha mẹ: “Con có thấy một thiếu nữ Phi-li-tin ở Thim-na, bây giờ xin cha mẹ cưới cô ấy làm vợ cho con.” Cha mẹ ông đáp: “Trong vòng bà con chúng ta hay trong vòng dân tộc chúng ta không có một người nữ nào con có thể lấy làm vợ hay sao, mà con phải đi cưới một người nữ trong dân Phi-li-tin không cắt bì làm vợ?” Nhưng Sam-sôn nói với cha: “Xin cha cưới cô ấy cho con. Vì cô ấy hợp mắt con.” Cha mẹ ông không biết rằng việc ấy đến từ CHÚA. Ngài tạo cơ hội để ông đối đầu với dân Phi-li-tin; vì lúc ấy người Phi-li-tin đang cai trị trên Y-sơ-ra-ên. Sam-sôn với cha mẹ ông đi xuống Thim-na. Khi họ vừa đến khu các vườn nho ở Thim-na, thì kìa, một con sư tử tơ gầm lên và chạy tới vồ Sam-sôn. Thần của CHÚA ngự xuống trên ông một cách mạnh mẽ nên ông dùng hai tay không xé con sư tử ra như thể xé một con dê con vậy. Nhưng ông không nói cho cha mẹ ông biết chuyện ông đã làm. Rồi ông đi xuống, nói chuyện với cô thiếu nữ, và cô ấy hợp mắt Sam-sôn.
Cách ít lâu, Sam-sôn trở lại cưới cô gái. Ông đi rẽ qua xem thử xác con sư tử hôm trước đã ra sao. Và kìa, trong xác khô của nó có một tổ ong đầy mật. Ông giơ tay lấy vỉ mật vừa đi vừa ăn. Ông cũng đem mời cha mẹ ông ăn nữa, và họ cùng ăn, nhưng ông không nói cho họ biết mật ấy đã lấy ra từ xác sư tử.
Bấy giờ cha của Sam-sôn xuống lo lễ cưới cô thiếu nữ đó cho Sam-sôn. Sam-sôn tổ chức một bữa tiệc để thết đãi theo như phong tục của các chàng rể thời ấy. Khi thấy ông, họ giới thiệu cho ông ba mươi thanh niên để làm bạn. Sam-sôn nói với họ: “Xin cho tôi đố anh em một câu đố, và nếu trong vòng bảy ngày của tiệc cưới, anh em trả lời được, thì tôi sẽ cho anh em ba mươi chiếc áo vải gai và ba mươi bộ y phục. Còn nếu anh em không thể giải được câu đố thì anh em phải cho tôi ba mươi chiếc áo vải gai và ba mươi bộ y phục.”
Họ đáp: “Anh hãy ra câu đố đi. Chúng tôi nghe đây.”
Ông nói:
“Từ vật ăn lấy ra được món ăn,
Từ kẻ mạnh lấy ra được món ngọt.”
Ba ngày trôi qua mà họ vẫn chưa tìm ra được câu giải đáp. Đến ngày thứ tư, họ đến nói với vợ Sam-sôn: “Cô phải dụ chồng cô giải đáp câu đố cho chúng tôi, nếu không chúng tôi sẽ đốt nhà cô, thiêu sống cô và cả nhà cha cô trong đó. Bộ các người tính mời chúng tôi đến đây để bóc lột chúng tôi hả?” Thế là vợ Sam-sôn đến khóc lóc với ông: “Anh ghét em, chứ anh có thương em gì đâu. Anh ra một câu đố cho dân tộc em mà anh không cho em biết câu giải đáp.” Ông đáp: “Ngay cả cha mẹ anh mà anh còn không cho biết, thì tại sao anh phải nói cho em?” Từ hôm đó cho đến ngày thứ bảy của tiệc cưới, nàng cứ thút thít khóc lóc mãi. Cho nên đến ngày thứ bảy, ông chịu không nổi mà phải giải nghĩa câu đố cho nàng; bởi vì nàng cứ liên tục làm áp lực với ông mãi. Nàng liền nói lại cho dân tộc nàng biết câu giải đáp. Trước lúc mặt trời lặn của ngày thứ bảy các thanh niên trong thành đến nói với ông:
“Có gì ngọt hơn mật ong?
Có gì mạnh hơn sư tử?”
Sam-sôn nói với họ:
“Nếu anh em không cày bằng bò cái tơ của tôi,
Thì làm sao anh em có thể giải được câu đố của tôi.”
Thần của CHÚA ngự xuống trên ông mạnh mẽ. Ông đi xuống Ách-ca-lôn giết ba mươi người Phi-li-tin, lột lấy quần áo của họ và thưởng cho những người giải đáp được câu đố. Rồi ông nổi giận phừng phừng và bỏ về nhà của cha ông. Còn vợ của Sam-sôn thì bị bắt gả cho một thanh niên trong đám bạn đã đến dự tiệc cưới của ông.
Sam-sôn Báo Thù Dân Phi-li-tin
Sau đó, đến mùa gặt lúa, Sam-sôn dắt một con dê con làm quà xuống thăm vợ. Ông nói: “Xin cho con vào gặp vợ con trong phòng nàng.” Nhưng cha nàng không cho ông vào. Ông ấy bảo: “Tôi tưởng là cậu ghét nó lắm, nên tôi đã gả nó cho bạn cậu rồi. Em gái nó há chẳng xinh đẹp hơn nó sao? Cậu hãy lấy cô em thế đi.” Sam-sôn nói với họ: “Nếu lần này tôi có làm gì hại người Phi-li-tin thì tôi cũng vô tội thôi.”
Vậy Sam-sôn đi ra, bắt ba trăm con chồn, cột đuôi chúng thành từng cặp; rồi buộc một bó đuốc vào mỗi cặp đuôi. Ông đốt đuốc và thả chúng chạy vào đồng ruộng của người Phi-li-tin. Vậy ông thiêu rụi cả lúa đã bó, lẫn lúa chưa gặt, các vườn nho, luôn với các rẫy ô-liu.
Người Phi-li-tin liền hỏi: “Ai đã làm như thế?” Người ta trả lời: “Sam-sôn, rễ của một người ở Thim-na. Vì người ấy đem vợ hắn gả cho một người bạn của hắn.” Thế là người Phi-li-tin đi lên, bắt nàng và cha nàng và đem thiêu sống.
Sam-sôn nói với họ: “Vì các ngươi đã làm thế, thì ta cũng sẽ không ngừng cho đến khi ta báo được thù xong.” Ông bèn xông vào họ và đánh giết nhiều người. Xong rồi ông đi xuống một hang đá ở Ê-tam mà trú ẩn.
Dân Phi-li-tin kéo lên, hạ trại ở Giu-đa, và tràn đến Lê-chi. Người Giu-đa hỏi: “Tại sao các người lên đánh chúng tôi?”
Họ đáp: “Chúng tôi lên đây để bắt Sam-sôn. Chúng tôi phải làm cho hắn như hắn đã làm cho chúng tôi.”
Đoạn, ba ngàn người Giu-đa đi xuống hang đá ở Ê-tam và nói với Sam-sôn: “Anh không biết là người Phi-li-tin đang cai trị chúng ta sao? Tại sao anh lại gây liên lụy cho chúng tôi như thế này?”
Ông trả lời: “Tôi chỉ làm cho chúng những gì chúng đã làm cho tôi thôi.”
Họ nói với ông: “Chúng tôi đến để xin trói anh và nộp anh cho người Phi-li-tin đây.”
Sam-sôn đáp: “Xin hãy thề với tôi là chính anh em sẽ không giết tôi.”
Họ đáp: “Chúng tôi đồng ý. Chúng tôi chỉ muốn trói anh và nộp anh cho người Phi-li-tin thôi, chứ chúng tôi không muốn giết anh đâu.” Vậy họ lấy hai sợi dây thừng mới trói Sam-sôn lại và dẫn ông lên khỏi hang đá. Khi ông đến gần Lê-chi, dân Phi-li-tin đổ xô ra reo hò. Thần của CHÚA ngự xuống trên ông mạnh mẽ. Những sợi dây thừng trói tay ông trở nên như những sợi chỉ gai bị lửa đốt; chúng tàn rụi khỏi tay ông. Thấy một cái xương hàm lừa còn mới, ông lượm lên và dùng nó đánh giết một ngàn người Phi-li-tin.
Đoạn ông nói:
“Với một chiếc hàm lừa,
Ta đã chất thây thành đống;
Với một chiếc hàm lừa,
Ta đã giết một ngàn người.”
Nói xong, ông vứt chiếc hàm lừa đi; và người ta đã gọi nơi đó là “Đồi Hàm Lừa.”
Rồi Sam-sôn cảm thấy khát nước quá đỗi. Ông kêu cầu với CHÚA rằng, “CHÚA đã cho tôi tớ CHÚA được chiến thắng lớn như thế này, lẽ nào giờ đây con phải chết khát và sa vào tay những kẻ không cắt bì sao?” Đức Chúa Trời bèn khiến một bộng đá ở Lê-chi nứt ra, nước từ đó tuôn ra. Sam-sôn đến uống, sức lực được phục hồi và tinh thần được phấn khởi trở lại. Bởi thế người ta đặt tên suối nước đó là “Suối Nước Cầu Xin” và con suối ấy vẫn còn tại Lê-chi cho đến ngày nay.
Sam-sôn xử đoán trong Y-sơ-ra-ên hai mươi năm, trong thời dân Phi-li-tin cường thịnh.
Sam-sôn Và Đa-li-la
Một ngày nọ, Sam-sôn đến Ga-xa và thấy một gái điếm tại đó. Ông vào nhà nàng và ngủ đêm với nàng. Người trong thành Ga-xa báo cho nhau rằng: “Sam-sôn đã đến đây!” Thế là họ vây phục chỗ ông ở và nằm đợi thâu đêm ở cổng thành. Suốt đêm họ không động tĩnh, vì nói rằng: “Hãy đợi đến sáng, chúng ta sẽ giết nó.” Nhưng Sam-sôn nằm đó cho đến nửa đêm. Ông thức dậy, nắm hai cánh cổng thành, cùng với hai trụ cổng, mà giựt tung nó ra, luôn cả then cài; rồi ông vác chúng trên vai, đem lên đỉnh đồi, đối diện Hếp-rôn.
Sau đó ít lâu, ông yêu mến một cô gái trong Thung Lũng Sô-réc, tên là Đa-li-la. Các thủ lãnh của Phi-li-tin đến gặp nàng và bảo: “Cô hãy cố dụ hắn nói cho cô bí mật của sức mạnh phi thường hắn có và cách nào để thắng hơn hắn, hầu chúng tôi có thể bắt trói hắn lại và chế ngự hắn. Rồi mỗi người chúng tôi sẽ thưởng cho cô một ngàn một trăm sê-ken16:5 12,540g bạc.”
Vậy Đa-li-la nói với Sam-sôn: “Anh hãy nói cho em biết do đâu mà anh có sức mạnh phi thường như thế và làm cách nào để trói anh lại và chế ngự được anh đi.”
Sam-sôn trả lời nàng: “Nếu có ai trói anh bằng bảy sợi dây cung tươi, chưa khô, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.”
Các lãnh tụ Phi-li-tin liền mang cho nàng bảy sợi dây cung tươi, chưa khô, rồi nàng dùng chúng trói ông lại. Sau khi cho người mai phục trong phòng, nàng gọi ông, “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Nhưng ông bứt đứt các dây cung dễ dàng như người ta đưa những sợi chỉ vào ngọn lửa. Vậy người ta không biết bí mật của sức mạnh ông đến từ đâu. Đa-li-la bèn nói với ông: “Anh đánh lừa em. Anh dối gạt em. Bây giờ anh hãy nói cho em biết làm sao trói được anh đi.” Ông nói: “Nếu có ai trói anh thật chặt bằng những dây thừng còn mới, chưa dùng lần nào, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Vậy Đa-li-la lấy những dây thừng mới và trói ông lại. Sau khi cho người mai phục sẵn trong phòng, nàng gọi: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Nhưng ông bứt đứt các dây thừng khỏi tay ông như bứt chỉ. Đa-li-la bèn nói với ông: “Cho đến giờ phút này anh vẫn còn gạt em, anh nói dối với em. Nói cho em biết làm sao trói anh lại được đi.”
Ông đáp: “Nếu em dệt bảy lọn tóc của anh vào khung cửi, rồi lấy ghim gài chặt chúng vào, thì anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Vậy Đa-li-la đợi cho Sam-sôn ngủ rồi lấy bảy lọn tóc của Sam-sôn dệt vào khung cửi, và lấy ghim gài chặt lại. Xong nàng gọi: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Ông thức giấc, bứt đứt cả ghim cài và khung cửi.
Bấy giờ Đa-li-la nói với ông: “Làm sao anh có thể nói được rằng: ‘Anh yêu em,’ trong khi anh không thật lòng với em. Đây là lần thứ ba anh đã gạt em và không nói cho em biết do đâu mà anh có sức mạnh phi thường như vậy.” Cứ như thế mà ngày nào nàng cũng trách móc giận hờn, khiến cho ông bực bội thiếu điều muốn chết. Ông bèn khai thật với nàng tất cả. Ông nói: “Dao cạo chưa hề đưa qua đầu anh bao giờ, bởi vì anh là người Na-xi-rê của Đức Chúa Trời từ khi còn trong lòng mẹ. Nếu tóc anh bị cạo đi, thì sức mạnh trong anh cũng sẽ biến mất, và anh sẽ yếu đi như bao nhiêu người khác.” Khi Đa-li-la thấy rằng ông đã khai thật với nàng mọi sự, nàng liền cho người đến báo với các lãnh tụ của dân Phi-li-tin rằng: “Hãy trở lại một lần nữa. Hắn đã khai thật với tôi tất cả rồi.” Vậy các lãnh tụ của dân Phi-li-tin trở lại, đem bạc theo trong tay. Nàng dỗ Sam-sôn ngủ trên đùi nàng, rồi nàng sai người cạo sạch bảy lọn tóc trên đầu ông, và như thế nàng chế ngự được ông; sức lực ông đã lìa khỏi ông. Xong nàng nói: “Sam-sôn ơi, người Phi-li-tin đang tấn công anh đó.” Ông thức dậy và thầm nghĩ: “Ta sẽ thoát khỏi như những lần trước và ta sẽ gỡ mình ra.” Nhưng ông không biết rằng CHÚA đã lìa khỏi ông.
Dân Phi-li-tin bắt ông, móc hai mắt ông, và đem ông xuống Ga-xa. Chúng xiềng ông bằng những sợi xích đồng, và bắt ông xay cối trong ngục. Nhưng tóc của ông sau khi bị cạo đã bắt đầu mọc lại.
Sam-sôn Qua Đời
Các lãnh tụ của dân Phi-li-tin họp lại để dâng một tế lễ trọng thể cho Đa-gôn, thần của họ, và để liên hoan, vì họ nói rằng: “Thần của chúng ta đã phó kẻ thù của chúng ta là Sam-sôn vào tay chúng ta.”
Khi dân Phi-li-tin thấy Sam-sôn, họ ca tụng thần của họ rằng:
“Thần của chúng ta đã phó kẻ thù của chúng ta
Vào tay chúng ta;
Ấy là kẻ đã phá hoại xứ sở chúng ta
Và đã giết hại nhiều người.”
Rồi khi hứng chí, họ gào vang: “Hãy đem Sam-sôn ra đây, để hắn giúp vui cho chúng ta.” Vậy họ dẫn Sam-sôn ra khỏi ngục để ông làm trò cho họ. Họ để ông đứng giữa các trụ cột. Sam-sôn nói với người hầu trẻ đang dắt tay ông rằng: “Hãy dẫn ta lại hàng trụ cột chống đỡ ngôi đền để ta có thể dựa vào đó.” Khi ấy trong đền có rất đông người, cả nam lẫn nữ; tất cả lãnh tụ của dân Phi-li-tin đều ở đó, và trên sân thượng của đền có khoảng ba ngàn người, cả nam lẫn nữ, chờ xem Sam-sôn làm trò.
Sam-sôn cầu nguyện với CHÚA rằng: “Lạy CHÚA, xin Ngài nhớ đến con. Đức Chúa Trời ôi, xin cho con có sức mạnh chỉ một lần nữa thôi, để con báo thù dân Phi-li-tin vì đôi mắt của con.” Rồi Sam-sôn với tay vịn vào hai cây trụ chính chống đỡ cả ngôi đền. Ông lấy thế bằng cách vịn một tay vào cây bên phải và một tay vào cây bên trái. Đoạn Sam-sôn nói: “Nguyện tôi bị chết chung với dân Phi-li-tin.” Rồi ông lấy hết sức đẩy hai cây trụ ra, và ngôi đền sụp đổ trên các lãnh tụ và dân chúng đang ở trong đó. Ấy vậy, lúc chết Sam-sôn giết nhiều người hơn khi còn sống.
Kế đó, các em trai ông và toàn gia đình của cha ông xuống lấy xác của ông về. Họ đem thi thể ông về chôn trong mộ của Ma-nô-a, cha ông, khoảng giữa Xô-ra và Ê-ta-ôn. Sam-sôn xử đoán trong Y-sơ-ra-ên được hai mươi năm.
Hình Tượng Của Mi-ca
Bấy giờ có một người trong vùng cao nguyên của Ép-ra-im tên là Mi-ca. Người ấy nói với mẹ ông rằng: “Một ngàn một trăm sê-ken bạc17:2 12,540kg của mẹ đã bị mất và mẹ nguyền rủa kẻ nào đã lấy bạc đó như thế nào con đều nghe cả. Số bạc ấy hiện đang ở trong tay con. Chính con đã lấy nó.” Người mẹ đáp: “Nguyện CHÚA ban phước cho con, con trai của mẹ.”
Khi Mi-ca trả một ngàn một trăm sê-ken bạc lại cho mẹ của ông, bà nói: “Mẹ quyết định biệt riêng số bạc này ra thánh cho CHÚA, trên danh nghĩa của con, để khắc một hình tượng và đúc một pho tượng. Coi như mẹ trao nó lại cho con.”
Vậy Mi-ca trả bạc lại cho mẹ của ông. Bà bèn lấy hai trăm sê-ken bạc17:4 228g giao cho người thợ bạc; người ấy đem chế thành một hình tượng và đúc ra một pho tượng, rồi người ta đem để chúng trong nhà của Mi-ca. Ông Mi-ca này cũng dựng một cái miếu thờ, làm một cái ê-phót và một số tượng thần, rồi lập một con trai của ông lên làm thầy tế lễ. Vả lúc ấy trong Y-sơ-ra-ên không có vua, ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải. Có một thanh niên Lê-vi, quê ở Bết-lê-hem trong miền Giu-đa. Thanh niên này sinh trưởng và lớn lên ở Giu-đa. Nhưng chàng rời bỏ Bết-lê-hem trong miền Giu-đa để đi tìm một nơi lập nghiệp. Trên đường đi chàng ghé đến nhà của Mi-ca ở cao nguyên Ép-ra-im. Mi-ca hỏi chàng: “Anh từ đâu đến?” Người ấy đáp: “Tôi là người Lê-vi quê ở Bết-lê-hem trong miền Giu-đa, và tôi đang đi kiếm một nơi để lập nghiệp.”
Mi-ca nói: “Nếu vậy mời anh ở lại đây với tôi, làm cha tôi và làm thầy tế lễ của tôi. Tôi sẽ trả cho anh mười sê-ken bạc17:10 114g một năm, còn y phục và thực phẩm, tôi sẽ cung cấp cho anh đầy đủ.” Vậy người Lê-vi bằng lòng ở lại với Mi-ca, và Mi-ca xem chàng như một con trai của ông. Rồi Mi-ca lập chàng thanh niên Lê-vi ấy làm thầy tế lễ cho mình, và người ấy sống trong nhà của Mi-ca. Xong rồi Mi-ca nói: “Bây giờ ta biết CHÚA sẽ ban phước cho ta, vì người Lê-vi này đã thành thầy tế lễ của ta.”
Người Đan Cướp Hình Tượng Và Định Cư Ở La-ít
Trong lúc đó Y-sơ-ra-ên không có vua. Và trong lúc đó bộ tộc Đan đang tìm kiếm một nơi để định cư, bởi vì đối với các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên thì họ chưa nhận được sản nghiệp. Vậy người Đan ở Xô-ra và Ê-ta-ôn sai năm dũng sĩ đi do thám và thăm dò xứ. Những người này đại diện cho các tộc họ trong cả bộ tộc. Người Đan bảo họ: “Hãy đi thăm dò xứ.” Những người này đến vùng cao nguyên Ép-ra-im và vào nhà của Mi-ca, để nghỉ đêm tại đó. Đang khi họ ở gần nhà Mi-ca thì nghe giọng nói của chàng thanh niên Lê-vi. Họ bèn đến đó và hỏi chàng: “Ai dẫn anh đến đây? Anh làm gì ở đây? Tại sao anh ở đây?”
Chàng nói cho họ biết Mi-ca đã đối với chàng như thế nọ thế kia, và nói tiếp: “Mi-ca đã mướn tôi làm thầy tế lễ cho ông ấy.” Họ liền hỏi anh: “Xin anh hãy cầu vấn Đức Chúa Trời xem chúng tôi đi chuyến này có thành công chăng?” Thầy tế lễ đáp: “Hãy đi bình an. Mắt CHÚA đoái xem chuyến đi này của quý ông.” Vậy năm người ấy lên đường đến La-ít; tại đó họ thấy dân tình sống an lành, như dân Si-đôn, bình lặng, không phòng bị gì cả; xứ ấy không thiếu món gì và rất trù phú. Hơn nữa, họ sống xa cách với dân Si-đôn và cũng không có liên hệ gì với ai. Khi họ trở về lại Xô-ra và Ê-ta-ôn, thì anh em của họ hỏi: “Các ngươi thăm dò thấy thế nào?” Họ đáp: “Chúng ta hãy đến tấn công họ. Chúng tôi đã thấy xứ ấy rồi, quả là một xứ thật tốt. Bộ anh em không tính làm gì sao? Đừng ngần ngại đến đó và chiếm lấy xứ. Khi anh em đến đó, anh em sẽ thấy một dân không phòng bị gì cả, và xứ thì rộng rãi, Đức Chúa Trời quả sẽ ban nó vào tay chúng ta. Thật là một xứ chẳng thiếu món gì trên đất.” Bấy giờ sáu trăm người Đan, trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, từ Xô-ra và Ê-ta-ôn ra đi. Dọc đường họ đóng trại tại Ki-ri-át Giê-a-rim trong miền Giu-đa. Đó là lý do tại sao người ta gọi phía tây của Ki-ri-át Giê-a-rim là “Trại của Đan” cho đến ngày nay. Từ đó họ tiến đến cao nguyên Ép-ra-im, rồi đến nhà của Mi-ca. Năm người đã đi do thám xứ nói với các anh em của họ: “Anh em có biết rằng trong mấy căn nhà này có một cái ê-phót, một số tượng gia thần, một hình tượng và một pho tượng không? Bây giờ anh em biết làm gì rồi phải không?” Vậy họ đến đó và vào nhà của chàng thanh niên Lê-vi, tức là nhà của Mi-ca và chào chàng. Sáu trăm người Đan, trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, đứng ở ngoài cổng. Năm người đã đi do thám xứ vào trong lấy hình tượng, cái ê-phót, những tượng gia thần, và một pho tượng, trong khi thầy tế lễ và sáu trăm người trang bị đầy đủ vũ khí ra trận, đứng ở ngoài cổng. Khi những người ấy vào trong nhà Mi-ca lấy hình tượng, cái ê-phót, những tượng gia thần, và một pho tượng, thì thầy tế lễ hỏi họ: “Các ông tính làm gì vậy?” Họ bảo chàng: “Hãy im lặng! Xin lấy tay bịt miệng lại. Hãy theo chúng tôi, làm cha và làm thầy tế lễ của chúng tôi. Làm thầy tế lễ cho một bộ tộc và một tộc họ trong Y-sơ-ra-ên không tốt hơn là chỉ phục vụ cho một gia đình sao?” Thầy tế lễ liền hoan hỉ chấp nhận. Người ấy lấy cái ê-phót, các tượng gia thần, và tấm hình tượng, rồi đi theo đoàn người ấy. Người Đan sắp xếp cho các trẻ em, súc vật, và tài sản đi trước, rồi họ quay trở ra tiếp tục lên đường. Khi họ đã đi được một khoảng xa, những người trong nhà Mi-ca và xóm giềng của Mi-ca hiệp nhau lại và đuổi theo người Đan. Khi họ đến gần và kêu la đằng sau, người Đan liền quay lại và hỏi Mi-ca: “Ngươi có chuyện gì vậy? Ngươi nhóm hiệp những kẻ này đuổi theo là có ý gì?”
Mi-ca đáp: “Các ngươi cướp lấy những tượng thần của ta làm nên và bắt luôn thầy tế lễ của ta nữa. Vậy mà bây giờ các người còn hỏi: ‘Ngươi có chuyện gì vậy’ sao?”
Người Đan đáp với Mi-ca: “Ngươi đừng để chúng ta nghe tiếng của ngươi nữa, kẻo những kẻ nóng tính trong chúng ta tấn công ngươi, rồi ngươi và cả nhà ngươi sẽ mất mạng chăng.” Vậy người Đan tiếp tục lên đường; còn Mi-ca, khi thấy họ mạnh hơn ông, ông quay lại và trở về nhà.
Rồi người Đan lấy những gì Mi-ca đã có, luôn cả thầy tế lễ của ông, và tiến đến La-ít, hãm đánh một dân sống an lành và không phòng bị. Họ dùng gươm đánh giết dân ấy và phóng hỏa đốt thành. Chẳng có ai đến tiếp cứu dân ấy, vì họ sống cách xa Si-đôn và vì họ cũng không giao thiệp với ai. Thành ấy nằm trong thung lũng gần Bết Rê-hóp. Người Đan xây lại thành và định cư ở đó. Họ đặt tên thành ấy là Đan, theo tên của con trai Y-sơ-ra-ên, tộc trưởng của họ, mặc dù thành ấy vốn được gọi là La-ít. Tại đây người Đan lập cho họ những hình tượng, rồi lập Giô-na-than, con trai của Ghẹt-sôn, cháu của Môi-se, và hậu tự ông làm thầy tế lễ cho bộ tộc Đan cho đến khi xứ bị chiếm. Họ tiếp tục thờ lạy những thần tượng do Mi-ca làm ra, trọn thời gian đền tạm của Đức Chúa Trời ở tại Si-lô.
Người Lê-vi Và Cô Vợ Bé
Trong lúc ấy, dân Y-sơ-ra-ên không có vua. Có một người Lê-vi sống ở một miền hẻo lánh trên cao nguyên Ép-ra-im. Người ấy có một cô vợ bé quê ở Bết-lê-hem, miền Giu-đa. Nhưng nàng lỗi đạo với chồng, rồi bỏ chồng mà trở về nhà cha nàng ở Bết-lê-hem, miền Giu-đa. Sau khi nàng về đó được bốn tháng, chồng nàng chỗi dậy, đến đó lấy lời ngọt ngào thuyết phục nàng trở về. Chồng nàng dẫn theo một đầy tớ và hai con lừa. Người phụ nữ mời chồng nàng vào nhà của cha nàng; khi cha nàng thấy con rể, ông vui mừng tiếp đón ân cần. Nhạc phụ người ấy, tức là cha người phụ nữ, nài mời con rể ở lại, nên người con rể ở lại với ông ba ngày. Họ ăn uống với nhau và nghỉ đêm tại đó.
Đến ngày thứ tư, họ chỗi dậy sớm để từ giã ra đi, nhưng cha người phụ nữ nói với con rể rằng: “Hãy ăn miếng bánh cho vững bụng rồi các con hãy lên đường.” Vậy, họ ngồi lại và hai người ăn uống với nhau. Ăn xong, cha người phụ nữ nói: “Con hãy ở lại một đêm nữa đi cho lòng con được vui vẻ.” Người con rể đứng dậy toan từ giã ra về thì người cha vợ cứ nài nỉ mãi, nên ông ta đành ở lại đêm đó.
Qua ngày thứ năm, ông thức dậy sớm để ra đi, nhưng cha người phụ nữ nói: “Con hãy ngồi xuống đây ăn uống cho vui vẻ đã, cứ thong thả đến chiều rồi đi cũng được.” Vậy họ ăn uống với nhau và lần lửa đến chiều. Khi ông, vợ bé ông và đầy tớ ông đứng lên để từ giã thì nhạc phụ ông nói: “Các con thấy đó, trời cũng đã về chiều rồi. Hay là các con ở lại thêm một đêm nữa đi. Thấy không, ngày đã gần tàn rồi. Thôi, hãy ở lại đây cho lòng các con được vui vẻ, rồi ngày mai hãy dậy sớm mà đi về.” Tuy nhiên, người con rể không chịu ở lại nữa, nên chỗi dậy và lên đường. Người ấy với hai con lừa mang yên và người vợ bé đi ngang qua Giê-bu19:10 Tức Giê-ru-sa-lem Khi họ đến gần Giê-bu thì ngày đã gần tàn; người đầy tớ bèn nói với chủ: “Thưa ông, chúng ta hãy rẽ vào thành của dân Giê-bu-sít này và qua đêm ở đó đi.” Nhưng người chủ nói: “Chúng ta sẽ không vào thành của dân ngoại, là những người không phải là con cái của Y-sơ-ra-ên đâu. Chúng ta sẽ ráng đến Ghi-bê-a.” Người chủ lại nói với người đầy tớ: “Cố gắng lên. Chúng ta hãy đến một trong các thành đằng trước, hoặc Ghi-bê-a hoặc Ra-ma, và qua đêm tại đó.” Rồi họ vượt qua nơi ấy và tiếp tục cuộc hành trình. Khi họ đến Ghi-bê-a, thuộc địa phận của bộ tộc Bên-gia-min thì mặt trời đã lặn. Họ bèn vào thành Ghi-bê-a và định qua đêm ở đó. Vào thành rồi, họ đến ngồi ở một nơi công cộng của thành, nhưng không ai mời họ vào nhà để qua đêm. Bấy giờ, lúc trời đã chạng vạng, có một cụ già đi làm ở ngoài đồng về. Cụ là người quê quán ở cao nguyên Ép-ra-im, nhưng bây giờ cụ sống ở Ghi-bê-a, là thành của người Bên-gia-min. Khi cụ ngước mắt lên và thấy khách lữ hành ở nơi công cộng của thành, cụ liền đến hỏi: “Ông đang trên đường về đâu? Ông từ đâu đến đây?” Lữ khách đáp: “Chúng tôi từ Bết-lê-hem miền Giu-đa đi ngang qua đây để về một miền hẻo lánh trên cao nguyên Ép-ra-im. Tôi vốn là người ở đó. Tôi đã đi Bết-lê-hem miền Giu-đa. Nay chúng tôi vào nhà của CHÚA. Nhưng không ai muốn tiếp chúng tôi vào nhà. Mặc dù chúng tôi có rơm và cỏ cho lừa, bánh và rượu cho tôi là tôi tớ cụ, cho người tớ gái này của cụ, và cho người bạn trẻ đi với chúng tôi. Chúng tôi không thiếu món gì.” Cụ già nói: “Xin các vị cứ an tâm. Những nhu cầu của các vị hãy để lão lo. Chỉ mong là các vị đừng ngủ qua đêm ngoài đường.” Vậy cụ mời họ vào nhà, và cho các lừa của khách ăn. Rồi họ rửa chân và ăn uống với nhau. Đang khi họ ăn uống vui vẻ với nhau, thình lình một đám người trong thành, là những kẻ trái thói tình dục, đến vây quanh nhà và đập cửa. Chúng nói với chủ nhà: “Hãy đem người đàn ông đã vào nhà ông ra đây, để chúng tôi ăn nằm với hắn.” Nhưng ông cụ, là chủ nhà, ra nói với chúng rằng: “Hỡi anh em! Xin đừng. Tôi năn nỉ anh em, đừng làm chuyện ác đức đó. Vì người ấy đang làm khách trong nhà tôi. Xin anh em đừng làm chuyện đồi bại ấy. Kìa, con gái của tôi vẫn còn trinh và cô vợ bé của người ấy đây. Để tôi dẫn họ ra cho anh em. Anh em muốn hãm hiếp họ hay làm gì với họ tuỳ ý, nhưng đối với người đó, xin anh em đừng làm chuyện đồi bại ấy.” Nhưng đám người đó không chịu nghe lời cụ. Vậy người khách đành phải trao cô vợ bé mình ra. Chúng hãm hiếp nàng và lăng nhục nàng thâu đêm; đến khi gần sáng chúng thả nàng ra. Khoảng rạng đông, nàng ráng sức trở về nơi chồng nàng tạm trú; về đến nơi, nàng ngã dài trước cửa và nằm đó cho đến khi trời sáng hẳn. Đến sáng, chồng nàng thức dậy, mở cửa, để chuẩn bị lên đường, thì thấy người vợ bé của mình đang nằm dài trước cửa, hai tay bíu vào ngạch cửa. Người chồng nói: “Em ráng đứng dậy, chúng ta hãy đi về.” Nhưng không có tiếng trả lời. Vậy ông bồng nàng lên, để trên lưng lừa, rồi từ giã và trở về nhà mình. Khi về đến nhà, ông lấy một con dao, cắt đứt tay chân và thi thể của vợ bé ông ra thành mười hai mảnh, rồi gởi chúng đi khắp cõi Y-sơ-ra-ên. Hết thảy những ai thấy vậy đều nói: “Từ lúc con cái Y-sơ-ra-ên lên khỏi Ai-cập cho đến nay, chưa hề có ai làm hay thấy một việc như thế bao giờ. Hãy nghĩ xem. Hãy bàn luận coi, và hãy nói ra cho biết là việc gì.”
Trừng Phạt Chi Tộc Bên-gia-min
Bấy giờ toàn dân Y-sơ-ra-ên từ Đan cho đến Bê-e-sê-ba, và luôn cả miền Ga-la-át tụ họp lại như một người trước mặt CHÚA tại Mích-ba. Những lãnh tụ của dân, tức của mười hai bộ tộc Y-sơ-ra-ên, đều hiện diện đông đủ trong đại hội của con dân Đức Chúa Trời. Có bốn trăm ngàn người mang gươm về tụ họp. Người Bên-gia-min cũng biết dân Y-sơ-ra-ên đã tụ họp tại Mích-ba. Đoạn dân Y-sơ-ra-ên nói: “Hãy nói cho chúng tôi biết việc ác này đã xảy ra làm sao.”
Vậy người Lê-vi, là chồng của người phụ nữ bị giết, đáp: “Tôi và vợ bé của tôi có đến Ghi-bê-a thuộc bộ tộc Bên-gia-min để qua đêm. Ban đêm, một đám đàn ông ở Ghi-bê-a tìm đến, bao quanh nhà, tính giết tôi. Họ đã hãm hiếp vợ bé tôi, và vì thế nàng đã chết. Tôi có cắt người vợ bé tôi ra từng mảnh và gởi mỗi mảnh cho mỗi miền của cơ nghiệp Y-sơ-ra-ên. Bởi vì họ có làm điều đê tiện và ô nhục này trong Y-sơ-ra-ên. Bây giờ, hỡi tất cả Y-sơ-ra-ên, anh em hãy nói đi, chúng ta phải giải quyết việc này ra sao.”
Toàn dân đều đứng dậy như một người và nói: “Không ai trong chúng ta về nhà. Không một ai trong chúng ta được đi về nhà mình cả. Nhưng đây là việc chúng ta phải làm cho Ghi-bê-a. Chúng ta sẽ bắt thăm và cứ theo đó mà lên đánh thành ấy. Trong mỗi bộ tộc của Y-sơ-ra-ên, chúng ta sẽ lấy mười người trong một trăm, trăm người trong một ngàn, ngàn người trong một vạn, để họ đi lo lương thực cho chúng ta. Khi họ trở lại, chúng ta sẽ xử Ghi-bê-a của Bên-gia-min tùy theo sự ô nhục mà thành ấy đã gây ra trong Y-sơ-ra-ên.”
Vậy toàn dân Y-sơ-ra-ên hiệp nhau như một người để tiến đánh thành ấy. Các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên sai sứ giả đến khắp miền của bộ tộc Bên-gia-min nói rằng: “Tội ác kinh khủng đã phạm giữa anh em là chi? Hãy nộp cho chúng tôi những tên tội phạm ở Ghi-bê-a để chúng tôi xử tử chúng, và tẩy trừ việc ác này khỏi Y-sơ-ra-ên.” Nhưng người Bên-gia-min không chịu nghe lời yêu cầu của anh em mình, là người Y-sơ-ra-ên. Họ ra khỏi thành họ và hiệp nhau tại Ghi-bê-a để đánh lại người Y-sơ-ra-ên. Khi ấy, người Bên-gia-min động viên được hai mươi sáu ngàn người, thảy đều là những tay kiếm tài ba, từ các thành của họ kéo về. Thêm vào đó, tại Ghi-bê-a, họ cũng chọn được bảy trăm tay kiếm nữa. Trong số những người Bên-gia-min này, có bảy trăm người thuận tay trái. Mỗi người đều có tài sử dụng trành ném đá. Họ có thể ném trúng một sợi tóc mà không trật.
Dân Y-sơ-ra-ên, không kể người Bên-gia-min, cũng triệu tập được bốn trăm ngàn tay kiếm. Tất cả đều là những chiến sĩ.
Người Y-sơ-ra-ên lên Bê-tên và cầu hỏi Đức Chúa Trời. Họ nói: “Ai trong chúng con sẽ lên đánh Bên-gia-min trước?”
CHÚA đáp: “Giu-đa sẽ đi trước.”
Sáng hôm sau, dân Y-sơ-ra-ên dậy sớm và hạ trại gần Ghi-bê-a. Dân Y-sơ-ra-ên ra đánh người Bên-gia-min. Họ dàn trận để giao chiến tại Ghi-bê-a. Người Bên-gia-min ra khỏi Ghi-bê-a và chém gục hai mươi hai ngàn người Y-sơ-ra-ên trong trận chiến ngày hôm ấy. Nhưng người Y-sơ-ra-ên khích lệ nhau và ra dàn trận nơi họ đã dàn trận ngày hôm trước. Người Y-sơ-ra-ên đi lên và khóc trước mặt CHÚA cho đến chiều tối. Họ cầu hỏi CHÚA rằng: “Chúng con có nên đi lên dàn trận giao chiến với người Bên-gia-min, là anh em của chúng con chăng?”
CHÚA đáp: “Hãy lên đánh chúng.”
Vậy, ngày thứ nhì, người Y-sơ-ra-ên kéo đến đánh người Bên-gia-min. Trong ngày thứ nhì đó, người Bên-gia-min từ trong Ghi-bê-a kéo ra nghinh chiến, và họ đã hạ sát thêm mười tám ngàn người Y-sơ-ra-ên; tất cả đều là những tay kiếm bản lĩnh.
Bấy giờ tất cả người Y-sơ-ra-ên đi lên Bê-tên; họ ngồi đó và khóc trước mặt CHÚA. Họ kiêng ăn cho đến chiều tối ngày hôm đó. Họ dâng những tế lễ thiêu và tế lễ cầu an lên CHÚA. Rồi họ cầu hỏi CHÚA, trong lúc ấy, Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời để tại đó. Có Phi-nê-a, con của Ê-lê-a-sa, cháu của A-rôn đang phục vụ trước mặt CHÚA. Họ hỏi: “Chúng con có nên đi lên dàn trận giao chiến với người Bên-gia-min, là anh em của chúng con, hay là chúng con nên ngưng lại?”
CHÚA phán: “Hãy đi. Ngày mai Ta sẽ phó chúng nó vào tay các ngươi.”
Người Y-sơ-ra-ên bèn đặt binh phục chung quanh Ghi-bê-a. Ngày thứ ba, họ kéo lên dàn trận trước Ghi-bê-a để giao chiến với người Bên-gia-min như đã làm hai ngày trước. Người Bên-gia-min đi ra đánh họ và bị dụ ra xa thành. Chúng bắt đầu đánh giết người Y-sơ-ra-ên như đã làm trong hai ngày trước. Vậy chúng đánh giết được khoảng ba mươi người Y-sơ-ra-ên ngoài đồng và trên những con đường nối liền giữa Bê-tên và Ghi-bê-a. Người Bên-gia-min nói với nhau: “Chúng ta đánh bại chúng như lần trước.” Còn người Y-sơ-ra-ên thì nói: “Chúng ta hãy theo các đường cái mà rút lui và dụ chúng đi xa khỏi thành.” Bấy giờ toàn quân Y-sơ-ra-ên chỗi dậy khỏi chỗ mình và kéo đến dàn trận tại Ba-anh Tha-ma, còn đội quân phục kích cũng chỗi dậy và tấn công vào phía tây của Ghi-bê-a. Rồi mười ngàn quân tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên tấn công vào mặt chính của Ghi-bê-a. Trận chiến thật dữ dội, trong khi người Bên-gia-min không biết thảm họa đã gần kề. CHÚA đã đánh bại người Bên-gia-min trước mặt người Y-sơ-ra-ên. Trong ngày ấy, người Y-sơ-ra-ên đánh hạ hai mươi lăm ngàn một trăm người Bên-gia-min. Tất cả đều là những tay kiếm giỏi. Khi ấy người Bên-gia-min biết rằng chúng đã bại trận.
Lúc bấy giờ người Y-sơ-ra-ên nhượng bộ trước sự tấn công của người Bên-gia-min, bởi vì họ tin tưởng vào đội quân phục kích họ đã đặt gần Ghi-bê-a. Đội quân phục kích đã đột ngột tấn công vào thành Ghi-bê-a. Họ tràn ra khắp thành và dùng gươm giết tất cả mọi người trong thành. Người Y-sơ-ra-ên có giao hẹn với đội quân phục kích rằng khi chiếm được thành họ phải đốt lên trong thành một luồng khói lớn để làm hiệu, thì bấy giờ người Y-sơ-ra-ên sẽ quay lại chiến đấu.
Lúc người Bên-gia-min bắt đầu tiến đánh và giết hại khoảng ba mươi người Y-sơ-ra-ên, chúng nói: “Chúng ta đánh bại chúng như trận trước.” Nhưng khi cột khói bắt đầu bốc lên trong thành, người Bên-gia-min quay lại và thấy cả thành đều bốc khói lên trời. Bấy giờ người Y-sơ-ra-ên quay lại tấn công, còn người Bên-gia-min thì hoảng sợ, bởi vì chúng nhận biết rằng tai họa sắp giáng xuống trên chúng. Vậy chúng quay lưng chạy trốn trước mặt người Y-sơ-ra-ên vào hướng sa mạc, nhưng chúng chẳng thể tránh chiến đấu được; dân quân từ các thành bủa ra chém giết chúng. Người ta bao vây người Bên-gia-min, liên tục truy kích chúng, và triệt hạ chúng trong vùng gần Ghi-bê-a, về hướng đông. Mười tám ngàn người Bên-gia-min đã ngã chết; tất cả đều là những chiến sĩ dũng cảm. Khi chúng quay lưng chạy trốn vào sa mạc, về hướng vầng đá Rim-môn, thì dọc các đường chính đã có thêm năm ngàn người bị giết. Chúng cũng bị truy đuổi tận đến Ghi-đôm và có hai ngàn người nữa bị giết. Vậy tổng số người Bên-gia-min bị giết trong ngày ấy là hai mươi lăm ngàn; hết thảy đều là những tay kiếm can trường. Nhưng có sáu trăm người quay lưng chạy trốn vào sa mạc và đến ẩn núp tại vầng đá Rim-nôm được bốn tháng. Rồi người Y-sơ-ra-ên quay về thanh toán dân Bên-gia-min. Họ dùng gươm diệt tất cả dân chúng, súc vật, và bất cứ những gì còn lại trong các thành của người Bên-gia-min. Đến thành nào họ cũng đều phóng hỏa thiêu rụi thành ấy.
Cứu Người Bên-gia-min Khỏi Bị Tuyệt Chủng
Khi ấy, người Y-sơ-ra-ên có thề với nhau tại Mích-ba rằng: “Không ai trong chúng ta sẽ gả con gái mình làm vợ người Bên-gia-min.” Rồi dân chúng kéo đến Bê-tên và ngồi tại đó trước mặt Đức Chúa Trời cho đến chiều tối. Họ cất tiếng lớn khóc cách đắng cay rằng: “Lạy CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên; tại sao điều này lại xảy đến cho Y-sơ-ra-ên? Tại sao ngày nay chúng con bị thiếu mất đi một bộ tộc?”
Hôm sau, dân chúng dậy sớm, dựng một bàn thờ tại đó, rồi dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an. Bấy giờ họ nói: “Có gia tộc nào trong tất cả các gia tộc của Y-sơ-ra-ên không đến dự đại hội trước mặt CHÚA không?” Vì họ có lập một lời thề long trọng về việc không đến trước mặt CHÚA tại Mích-ba rằng: “Ai không đến sẽ bị xử tử.” Người Y-sơ-ra-ên ân hận về việc người Bên-gia-min, anh em của họ, và nói: “Ngày nay, một bộ tộc đã bị dứt khỏi Y-sơ-ra-ên. Chúng ta phải làm sao để kiếm vợ cho những người còn sót lại, vì chúng ta có thề trước mặt CHÚA rằng chúng ta sẽ không gả con gái chúng ta làm vợ cho chúng?”
Rồi họ nói: “Có ai trong các bộ tộc của Y-sơ-ra-ên không đến trước mặt CHÚA tại Mích-ba chăng?” Họ khám phá ra rằng chẳng có ai từ gia tộc Gia-bê ở Ga-la-át có mặt ở trại quân trong ngày đại hội. Vì khi điểm danh dân chúng không có người nào trong gia tộc của Gia-bê ở Ga-la-át có mặt tại đó. Vậy hội chúng liền phái mười hai ngàn quân đến đó với lệnh rằng: “Hãy đi, dùng gươm diệt tất cả dân Gia-bê ở Ga-la-át, kể cả phụ nữ và trẻ em. Đây là điều các ngươi phải làm: các ngươi phải diệt tất cả những người nam và những người nữ nào đã ăn nằm với một người nam.” Chúng tìm thấy trong dân Gia-bê ở Ga-la-át có bốn trăm trinh nữ, là những người chưa hề ăn nằm với một người nam nào, rồi chúng đưa các trinh nữ ấy về trại quân tại Si-lô, trong xứ Ca-na-an. Đoạn cả hội chúng phái người đến gặp người Bên-gia-min đang ẩn núp tại vầng đá Rim-môn để làm hòa với họ. Người Bên-gia-min bèn trở về. Họ ban cho những người Bên-gia-min này những thiếu nữ mà họ đã giữ mạng lại trong vòng những phụ nữ của Gia-bê ở Ga-la-át; nhưng số thiếu nữ đó không đủ cho chúng. Dân chúng ân hận về việc họ đã làm đối với bộ tộc Bên-gia-min, bởi vì CHÚA đã cho có một chỗ bị khuyết trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên. Vậy các trưởng lão của hội chúng nói: “Chúng ta phải làm gì cho những người còn lại mà không có vợ, vì không còn phụ nữ nào sót lại trong gia tộc Bên-gia-min nữa?” Vì họ nói: “Phải có người thừa hưởng phần sản nghiệp dành cho bộ tộc Bên-gia-min còn sót lại, hầu cho một bộ tộc không bị xóa khỏi Y-sơ-ra-ên. Trong khi đó chúng ta lại không thể gả con gái chúng ta cho chúng làm vợ.” Vì người Y-sơ-ra-ên đã có thề: “Đáng rủa sả thay cho kẻ gả con gái làm vợ người Bên-gia-min.” Vậy họ nói: “Hãy xem, hằng năm đều có kỳ lễ cho CHÚA tại Si-lô, trong khu vực về phía bắc của Bê-tên, bên phía đông con đường đi từ Bê-tên lên Si-chem, và phía nam Lê-bô-na.” Họ bảo người Bên-gia-min: “Hãy đi, nằm phục trong các vườn nho; và để ý, khi nào thấy các thiếu nữ ở Si-lô ra múa hát, thì các ngươi hãy ra khỏi các vườn nho và mỗi người bắt cóc lấy một thiếu nữ để làm vợ cho mình, rồi trở về trong đất Bên-gia-min. Nếu cha và anh của chúng có đến kiện cáo với chúng ta, thì chúng ta sẽ bảo họ: ‘Thôi hãy rộng lượng và thông cảm cho chúng tôi mà gả các cháu cho họ đi. Vì trong trận chiến vừa qua, chúng ta không kiếm đủ cho họ mỗi người được một người vợ. Hơn nữa anh em cũng đâu có mắc phải lời thề.’ ” Người Bên-gia-min bèn làm như vậy. Mỗi người ra bắt cóc cho mình một cô thiếu nữ làm vợ. Rồi họ trở về lãnh thổ của Bên-gia-min. Họ xây dựng lại thành trì và sống ở đó. Còn người Y-sơ-ra-ên thì rời khỏi nơi đó và trở về bộ tộc và gia tộc của mình. Ai nấy đều rời khỏi nơi đó mà trở về lãnh thổ của mình. Trong lúc ấy, dân Y-sơ-ra-ên không có vua; ai nấy đều làm theo ý mình cho là phải.
1
Judah Takes the Lead After Joshua died, the Israelites asked the LORD,“Who should lead the invasion against the Canaanites and launch the attack?”
The LORD said,“The men of Judah should take the lead. Be sure of this! I am handing the land over to them.”
The men of Judah said to their relatives, the men of Simeon,“Invade our allotted land with us and help us attack the Canaanites. Then we will go with you into your allotted land.” So the men of Simeon went with them.
The men of Judah attacked, and the LORD handed the Canaanites and Perizzites over to them. They killed ten thousand men at Bezek.
They met Adoni-Bezek at Bezek and fought him. They defeated the Canaanites and Perizzites.
When Adoni-Bezek ran away, they chased him and captured him. Then they cut off his thumbs and big toes.
Adoni-Bezek said,“Seventy kings, with thumbs and big toes cut off, used to lick up food scraps under my table. God has repaid me for what I did to them.” They brought him to Jerusalem, where he died.
The men of Judah attacked Jerusalem and captured it. They put the sword to it and set the city on fire.
Later the men of Judah went down to attack the Canaanites living in the hill country, the Negev, and the foothills.
The men of Judah attacked the Canaanites living in Hebron.(Hebron used to be called Kiriath Arba.) They killed Sheshai, Ahiman, and Talmai.
From there they attacked the people of Debir.(Debir used to be called Kiriath Sepher.)
Caleb said,“To the man who attacks and captures Kiriath Sepher I will give my daughter Achsah as a wife.”
When Othniel son of Kenaz, Caleb’s younger brother, captured it, Caleb gave him his daughter Achsah as a wife.
One time Achsah came and charmed her father so she could ask him for some land. When she got down from her donkey, Caleb said to her,“What would you like?”
She answered,“Please give me a special present. Since you have given me land in the Negev, now give me springs of water.” So Caleb gave her both the upper and lower springs.
Now the descendants of the Kenite, Moses’ father-in-law, went up with the people of Judah from the city of date palm trees to Arad in the wilderness of Judah, located in the Negev. They went and lived with the people of Judah.
The men of Judah went with their brothers the men of Simeon and defeated the Canaanites living in Zephath. They wiped out Zephath. So people now call the city Hormah.
The men of Judah captured Gaza, Ashkelon, Ekron, and the territory surrounding each of these cities.
The LORD was with the men of Judah. They conquered the hill country, but they could not conquer the people living in the coastal plain, because they had chariots with iron-rimmed wheels.
Caleb received Hebron, just as Moses had promised. He drove out the three Anakites.
The men of Benjamin, however, did not conquer the Jebusites living in Jerusalem. The Jebusites live with the people of Benjamin in Jerusalem to this very day.
Partial Success When the men of Joseph attacked Bethel, the LORD was with them.
When the men of Joseph spied out Bethel(it used to be called Luz),
the spies spotted a man leaving the city. They said to him,“If you show us a secret entrance into the city, we will reward you.”
He showed them a secret entrance into the city, and they put the city to the sword. But they let the man and his extended family leave safely.
He moved to Hittite country and built a city. He named it Luz, and it has kept that name to this very day.
The men of Manasseh did not conquer Beth Shean, Taanach, or their surrounding towns. Nor did they conquer the people living in Dor, Ibleam, Megiddo or their surrounding towns. The Canaanites managed to remain in those areas.
Whenever Israel was strong militarily, they forced the Canaanites to do hard labor, but they never totally conquered them.
The men of Ephraim did not conquer the Canaanites living in Gezer. The Canaanites lived among them in Gezer.
The men of Zebulun did not conquer the people living in Kitron and Nahalol. The Canaanites lived among them and were forced to do hard labor.
The men of Asher did not conquer the people living in Acco or Sidon, nor did they conquer Ahlab, Achzib, Helbah, Aphek, or Rehob.
The people of Asher live among the Canaanites residing in the land because they did not conquer them.
The men of Naphtali did not conquer the people living in Beth Shemesh or Beth Anath. They live among the Canaanites residing in the land. The Canaanites living in Beth Shemesh and Beth Anath were forced to do hard labor for them.
The Amorites forced the people of Dan to live in the hill country. They did not allow them to live in the coastal plain.
The Amorites managed to remain in Har Heres, Aijalon, and Shaalbim. Whenever the tribe of Joseph was strong militarily, the Amorites were forced to do hard labor.
The border of Amorite territory ran from the Scorpion Ascent to Sela and on up.
2
Confrontation and Repentance at Bokim The LORD’s angel went up from Gilgal to Bokim. He said,“I brought you up from Egypt and led you into the land I had solemnly promised to give to your ancestors. I said,‘I will never break my covenant with you,
but you must not make an agreement with the people who live in this land. You should tear down the altars where they worship.’ But you have disobeyed me. Why would you do such a thing?
At that time I also warned you,‘If you disobey, I will not drive out the Canaanites before you. They will ensnare you and their gods will lure you away.’”
When the LORD’s angel finished speaking these words to all the Israelites, the people wept loudly.
They named that place Bokim and offered sacrifices to the LORD there.
The End of an Era When Joshua dismissed the people, the Israelites went to their allotted portions of territory, intending to take possession of the land.
The people worshiped the LORD throughout Joshua’s lifetime and as long as the elderly men who outlived him remained alive. These men had witnessed all the great things the LORD had done for Israel.
Joshua son of Nun, the LORD’s servant, died at the age of one hundred ten.
The people buried him in his allotted land in Timnath Heres in the hill country of Ephraim, north of Mount Gaash.
That entire generation passed away; a new generation grew up that had not personally experienced the LORD’s presence or seen what he had done for Israel.
A Monotonous Cycle The Israelites did evil before the LORD by worshiping the Baals.
They abandoned the LORD God of their ancestors who brought them out of the land of Egypt. They followed other gods– the gods of the nations who lived around them. They worshiped them and made the LORD angry.
They abandoned the LORD and worshiped Baal and the Ashtoreths.
The LORD was furious with Israel and handed them over to robbers who plundered them. He turned them over to their enemies who lived around them. They could no longer withstand their enemies’ attacks.
Whenever they went out to fight, the LORD did them harm, just as he had warned and solemnly vowed he would do. They suffered greatly.
The LORD raised up leaders who delivered them from these robbers.
But they did not obey their leaders. Instead they prostituted themselves to other gods and worshiped them. They quickly turned aside from the path their ancestors had walked. Their ancestors had obeyed the LORD’s commands, but they did not.
When the LORD raised up leaders for them, the LORD was with each leader and delivered the people from their enemies while the leader remained alive. The LORD felt sorry for them when they cried out in agony because of what their harsh oppressors did to them.
When a leader died, the next generation would again act more wickedly than the previous one. They would follow after other gods, worshiping them and bowing down to them. They did not give up their practices or their stubborn ways.
A Divine Decision The LORD was furious with Israel. He said,“This nation has violated the terms of the covenant I made with their ancestors by disobeying me.
So I will no longer remove before them any of the nations that Joshua left unconquered when he died,
in order to test Israel. I want to see whether or not the people will carefully walk in the path marked out by the LORD, as their ancestors were careful to do.”
This is why the LORD permitted these nations to remain and did not conquer them immediately; he did not hand them over to Joshua.
3
These were the nations the LORD permitted to remain so he could use them to test Israel– he wanted to test all those who had not experienced battle against the Canaanites.
He left those nations simply because he wanted to teach the subsequent generations of Israelites, who had not experienced the earlier battles, how to conduct holy war.
These were the nations: the five lords of the Philistines, all the Canaanites, the Sidonians, and the Hivites living in Mount Lebanon, from Mount Baal Hermon to Lebo Hamath.
They were left to test Israel, so the LORD would know if his people would obey the commands he gave their ancestors through Moses.
The Israelites lived among the Canaanites, Hittites, Amorites, Perizzites, Hivites, and Jebusites.
They took the Canaanites’ daughters as wives and gave their daughters to the Canaanites; they worshiped their gods as well.
Othniel: A Model Leader The Israelites did evil in the LORD’s sight. They forgot the LORD their God and worshiped the Baals and the Asherahs.
The LORD was furious with Israel and turned them over to King Cushan-Rishathaim of Armon-Haraim. They were Cushan-Rishathaim’s subjects for eight years.
When the Israelites cried out for help to the LORD, he raised up a deliverer for the Israelites who rescued them. His name was Othniel son of Kenaz, Caleb’s younger brother.
The LORD’s Spirit empowered him and he led Israel. When he went to do battle, the LORD handed over to him King Cushan-Rishathaim of Armon and he overpowered him.
The land had rest for forty years; then Othniel son of Kenaz died.
Deceit, Assassination, and Deliverance The Israelites again did evil in the LORD’s sight. The LORD gave King Eglon of Moab control over Israel because they had done evil in the LORD’s sight.
Eglon formed alliances with the Ammonites and Amalekites. He came and defeated Israel, and they seized the city of date palm trees.
The Israelites were subject to King Eglon of Moab for eighteen years.
When the Israelites cried out for help to the LORD, he raised up a deliverer for them. His name was Ehud son of Gera the Benjaminite, a left-handed man. The Israelites sent him to King Eglon of Moab with their tribute payment.
Ehud made himself a sword– it had two edges and was eighteen inches long. He strapped it under his coat on his right thigh.
He brought the tribute payment to King Eglon of Moab.(Now Eglon was a very fat man.)
After Ehud brought the tribute payment, he dismissed the people who had carried it.
But he went back once he reached the carved images at Gilgal. He said to Eglon,“I have a secret message for you, O king.” Eglon said,“Be quiet!” All his attendants left.
When Ehud approached him, he was sitting in his well-ventilated upper room all by himself. Ehud said,“I have a message from God for you.” When Eglon rose up from his seat,
Ehud reached with his left hand, pulled the sword from his right thigh, and drove it into Eglon’s belly.
The handle went in after the blade, and the fat closed around the blade, for Ehud did not pull the sword out of his belly.
As Ehud went out into the vestibule, he closed the doors of the upper room behind him and locked them.
When Ehud had left, Eglon’s servants came and saw the locked doors of the upper room. They said,“He must be relieving himself in the well-ventilated inner room.”
They waited so long they were embarrassed, but he still did not open the doors of the upper room. Finally they took the key and opened the doors. Right before their eyes was their master, sprawled out dead on the floor!
Now Ehud had escaped while they were delaying. When he passed the carved images, he escaped to Seirah.
When he reached Seirah, he blew a trumpet in the Ephraimite hill country. The Israelites went down with him from the hill country, with Ehud in the lead.
He said to them,“Follow me, for the LORD is about to defeat your enemies, the Moabites!” They followed him, captured the fords of the Jordan River opposite Moab, and did not let anyone cross.
That day they killed about ten thousand Moabites– all strong, capable warriors; not one escaped.
Israel humiliated Moab that day, and the land had rest for eighty years.
After Ehud came Shamgar son of Anath. He killed six hundred Philistines with an oxgoad. So he also delivered Israel.
4
Deborah Summons Barak The Israelites again did evil in the LORD’s sight after Ehud’s death.
The LORD turned them over to King Jabin of Canaan, who ruled in Hazor. The general of his army was Sisera, who lived in Harosheth Haggoyim.
The Israelites cried out for help to the LORD, because Sisera had nine hundred chariots with iron-rimmed wheels, and he cruelly oppressed the Israelites for twenty years.
Now Deborah, a prophetess, wife of Lappidoth, was leading Israel at that time.
She would sit under the Date Palm Tree of Deborah between Ramah and Bethel in the Ephraimite hill country. The Israelites would come up to her to have their disputes settled.
She summoned Barak son of Abinoam from Kedesh in Naphtali. She said to him,“Is it not true that the LORD God of Israel is commanding you? Go, march to Mount Tabor! Take with you ten thousand men from Naphtali and Zebulun!
I will bring Sisera, the general of Jabin’s army, to you at the Kishon River, along with his chariots and huge army. I will hand him over to you.”
Barak said to her,“If you go with me, I will go. But if you do not go with me, I will not go.”
She said,“I will indeed go with you. But you will not gain fame on the expedition you are undertaking, for the LORD will turn Sisera over to a woman.” Deborah got up and went with Barak to Kedesh.
Barak summoned men from Zebulun and Naphtali to Kedesh. Ten thousand men followed him; Deborah went up with him as well.
Now Heber the Kenite had moved away from the Kenites, the descendants of Hobab, Moses’ father-in-law. He lived near the great tree in Zaanannim near Kedesh.
When Sisera heard that Barak son of Abinoam had gone up to Mount Tabor,
he ordered all his chariotry– nine hundred chariots with iron-rimmed wheels– and all the troops he had with him to go from Harosheth Haggoyim to the River Kishon.
Deborah said to Barak,“Spring into action, for this is the day the LORD is handing Sisera over to you! Has the LORD not taken the lead?” So Barak went down from Mount Tabor with ten thousand men following him.
The LORD routed Sisera, all his chariotry, and all his army with the edge of the sword. Sisera jumped out of his chariot and ran away on foot.
Now Barak chased the chariots and the army all the way to Harosheth Haggoyim. Sisera’s whole army died by the edge of the sword; not even one survived!
Now Sisera ran away on foot to the tent of Jael, wife of Heber the Kenite, for King Jabin of Hazor and the family of Heber the Kenite had made a peace treaty.
Jael came out to welcome Sisera. She said to him,“Stop and rest, my lord. Stop and rest with me. Don’t be afraid.” So Sisera stopped to rest in her tent, and she put a blanket over him.
He said to her,“Give me a little water to drink, because I’m thirsty.” She opened a goatskin container of milk and gave him some milk to drink. Then she covered him up again.
He said to her,“Stand watch at the entrance to the tent. If anyone comes along and asks you,‘Is there a man here?’ say,‘No.’”
Then Jael wife of Heber took a tent peg in one hand and a hammer in the other. She crept up on him, drove the tent peg through his temple into the ground while he was asleep from exhaustion, and he died.
Now Barak was chasing Sisera. Jael went out to welcome him. She said to him,“Come here and I will show you the man you are searching for.” He went with her into the tent, and there he saw Sisera sprawled out dead with the tent peg in his temple.
That day God humiliated King Jabin of Canaan before the Israelites.
Israel’s power continued to overwhelm King Jabin of Canaan until they did away with him.
5
Celebrating the Victory in Song On that day Deborah and Barak son of Abinoam sang this victory song:
“When the leaders took the lead in Israel, When the people answered the call to war– Praise the LORD!
Hear, O kings! Pay attention, O rulers! I will sing to the LORD! I will sing to the LORD God of Israel!
O LORD, when you departed from Seir, when you marched from Edom’s plains, the earth shook, the heavens poured down, the clouds poured down rain.
The mountains trembled before the LORD, the God of Sinai; before the LORD God of Israel.
In the days of Shamgar son of Anath, in the days of Jael caravans disappeared; travelers had to go on winding side roads.
Warriors were scarce, they were scarce in Israel, until you arose, Deborah, until you arose as a motherly protector in Israel.
God chose new leaders, then fighters appeared in the city gates; but, I swear, not a shield or spear could be found, among forty military units in Israel.
My heart went out to Israel’s leaders, to the people who answered the call to war. Praise the LORD!
You who ride on light-colored female donkeys, who sit on saddle blankets, you who walk on the road, pay attention!
Hear the sound of those who divide the sheep among the watering places; there they tell of the LORD’s victorious deeds, the victorious deeds of his warriors in Israel. Then the LORD’s people went down to the city gates–
Wake up, wake up, Deborah! Wake up, wake up, sing a song! Get up, Barak! Capture your prisoners of war, son of Abinoam!
Then the survivors came down to the mighty ones; the LORD’s people came down to me as warriors.
They came from Ephraim, who uprooted Amalek, they follow after you, Benjamin, with your soldiers. From Makir leaders came down, from Zebulun came the ones who march carrying an officer’s staff.
Issachar’s leaders were with Deborah, the men of Issachar supported Barak; into the valley they were sent under Barak’s command. Among the clans of Reuben there was intense heart searching.
Why do you remain among the sheepfolds, listening to the shepherds playing their pipes for their flocks? As for the clans of Reuben– there was intense searching of heart.
Gilead stayed put beyond the Jordan River. As for Dan– why did he seek temporary employment in the shipyards? Asher remained on the seacoast, he stayed by his harbors.
The men of Zebulun were not concerned about their lives; Naphtali charged on to the battlefields.
Kings came, they fought; the kings of Canaan fought, at Taanach by the waters of Megiddo, but they took no silver as plunder.
From the sky the stars fought, from their paths in the heavens they fought against Sisera.
The Kishon River carried them off; the river confronted them– the Kishon River. Step on the necks of the strong!
The horses’ hooves pounded the ground; the stallions galloped madly.
‘Call judgment down on Meroz,’ says the LORD’s angel;‘Be sure to call judgment down on those who live there, because they did not come to help in the LORD’s battle, to help in the LORD’s battle against the warriors.’
The most rewarded of women should be Jael, the wife of Heber the Kenite! She should be the most rewarded of women who live in tents.
He asked for water, and she gave him milk; in a bowl fit for a king, she served him curds.
Her left hand reached for the tent peg, her right hand for the workmen’s hammer. She“hammered” Sisera, she shattered his skull, she smashed his head, she drove the tent peg through his temple.
Between her feet he collapsed, he fell limp and was lifeless; between her feet he collapsed and fell, in the spot where he collapsed, there he fell– violently killed!
Through the window she looked; Sisera’s mother cried out through the lattice:‘Why is his chariot so slow to return? Why are the hoofbeats of his chariot-horses delayed?’
The wisest of her ladies answer; indeed she even thinks to herself,
‘No doubt they are gathering and dividing the plunder– a girl or two for each man to rape! Sisera is grabbing up colorful cloth, he is grabbing up colorful embroidered cloth, two pieces of colorful embroidered cloth, for the neck of the plunderer!’
May all your enemies perish like this, O LORD! But may those who love you shine like the rising sun at its brightest!” And the land had rest for forty years.
6
Oppression and Confrontation The Israelites did evil in the LORD’s sight, so the LORD turned them over to Midian for seven years.
The Midianites overwhelmed Israel. Because of Midian the Israelites made shelters for themselves in the hills, as well as caves and strongholds.
Whenever the Israelites planted their crops, the Midianites, Amalekites, and the people from the east would attack them.
They invaded the land and devoured its crops all the way to Gaza. They left nothing for the Israelites to eat, and they took away the sheep, oxen, and donkeys.
When they invaded with their cattle and tents, they were as thick as locusts. Neither they nor their camels could be counted. They came to devour the land.
Israel was so severely weakened by Midian that the Israelites cried out to the LORD for help.
When the Israelites cried out to the LORD for help because of Midian,
So the LORD sent a prophet to the Israelites. He said to them,“This is what the LORD God of Israel has said:‘I brought you up from Egypt and took you out of that place of slavery.
I rescued you from Egypt’s power and from the power of all who oppressed you. I drove them out before you and gave their land to you.
I said to you,“I am the LORD your God! Do not worship the gods of the Amorites, in whose land you are now living!” But you have disobeyed me.’”
Gideon Meets Some Visitors The LORD’s angel came and sat down under the oak tree in Ophrah owned by Joash the Abiezrite. He arrived while Joash’s son Gideon was threshing wheat in a winepress so he could hide it from the Midianites.
The LORD’s angel appeared and said to him,“The LORD is with you, courageous warrior!”
Gideon said to him,“Pardon me, but if the LORD is with us, why has such disaster overtaken us? Where are all his miraculous deeds our ancestors told us about? They said,‘Did the LORD not bring us up from Egypt?’ But now the LORD has abandoned us and handed us over to Midian.”
Then the LORD himself turned to him and said,“You have the strength. Deliver Israel from the power of the Midianites! Have I not sent you?”
Gideon said to him,“But Lord, how can I deliver Israel? Just look! My clan is the weakest in Manasseh, and I am the youngest in my family.”
The LORD said to him,“Ah, but I will be with you! You will strike down the whole Midianite army.”
Gideon said to him,“If you really are pleased with me, then give me a sign as proof that it is really you speaking with me.
Do not leave this place until I come back with a gift and present it to you.” The LORD said,“I will stay here until you come back.”
Gideon went and prepared a young goat, along with unleavened bread made from an ephah of flour. He put the meat in a basket and the broth in a pot. He brought the food to him under the oak tree and presented it to him.
God’s angel said to him,“Put the meat and unleavened bread on this rock, and pour out the broth.” Gideon did as instructed.
The LORD’s angel touched the meat and the unleavened bread with the tip of his staff. Fire flared up from the rock and consumed the meat and unleavened bread. The LORD’s angel then disappeared.
When Gideon realized that it was the LORD’s angel, he said,“Oh no! Sovereign LORD! I have seen the LORD’s angel face to face!”
The LORD said to him,“You are safe! Do not be afraid! You are not going to die!”
Gideon built an altar for the LORD there, and named it“The LORD is on friendly terms with me.” To this day it is still there in Ophrah of the Abiezrites.
Gideon Destroys the Altar That night the LORD said to him,“Take the bull from your father’s herd, as well as a second bull, one that is seven years old. Pull down your father’s Baal altar and cut down the nearby Asherah pole.
Then build an altar for the LORD your God on the top of this stronghold according to the proper pattern. Take the second bull and offer it as a burnt sacrifice on the wood from the Asherah pole that you cut down.”
So Gideon took ten of his servants and did just as the LORD had told him. He was too afraid of his father’s family and the men of the city to do it in broad daylight, so he waited until nighttime.
When the men of the city got up the next morning, they saw the Baal altar pulled down, the nearby Asherah pole cut down, and the second bull sacrificed on the newly built altar.
They said to one another,“Who did this?” They investigated the matter thoroughly and concluded that Gideon son of Joash had done it.
The men of the city said to Joash,“Bring out your son, so we can execute him! He pulled down the Baal altar and cut down the nearby Asherah pole.”
But Joash said to all those who confronted him,“Must you fight Baal’s battles? Must you rescue him? Whoever takes up his cause will die by morning! If he really is a god, let him fight his own battles! After all, it was his altar that was pulled down.”
That very day Gideon’s father named him Jerub-Baal, because he had said,“Let Baal fight with him, for it was his altar that was pulled down.”
Gideon Summons an Army and Seeks Confirmation All the Midianites, Amalekites, and the people from the east assembled. They crossed the Jordan River and camped in the Jezreel Valley.
The LORD’s Spirit took control of Gideon. He blew a trumpet, summoning the Abiezrites to follow him.
He sent messengers throughout Manasseh and summoned them to follow him as well. He also sent messengers throughout Asher, Zebulun, and Naphtali, and they came up to meet him.
Gideon said to God,“If you really intend to use me to deliver Israel, as you promised, then give me a sign as proof.
Look, I am putting a wool fleece on the threshing floor. If there is dew only on the fleece, and the ground around it is dry, then I will be sure that you will use me to deliver Israel, as you promised.”
The LORD did as he asked. When he got up the next morning, he squeezed the fleece, and enough dew dripped from it to fill a bowl.
Gideon said to God,“Please do not get angry at me, when I ask for just one more sign. Please allow me one more test with the fleece. This time make only the fleece dry, while the ground around it is covered with dew.”
That night God did as he asked. Only the fleece was dry and the ground around it was covered with dew.
7
Gideon Reduces the Ranks Jerub-Baal(that is, Gideon) and his men got up the next morning and camped near the spring of Harod. The Midianites were camped north of them near the hill of Moreh in the valley.
The LORD said to Gideon,“You have too many men for me to hand Midian over to you. Israel might brag,‘Our own strength has delivered us.’
Now, announce to the men,‘Whoever is shaking with fear may turn around and leave Mount Gilead.’” Twenty-two thousand men went home; ten thousand remained.
The LORD spoke to Gideon again,“There are still too many men. Bring them down to the water and I will thin the ranks some more. When I say,‘This one should go with you,’ pick him to go; when I say,‘This one should not go with you,’ do not take him.”
So he brought the men down to the water. Then the LORD said to Gideon,“Separate those who lap the water as a dog laps from those who kneel to drink.”
Three hundred men lapped with their hands to their mouths; the rest of the men kneeled to drink water.
The LORD said to Gideon,“With the three hundred men who lapped I will deliver the whole army and I will hand Midian over to you. The rest of the men should go home.”
The men who were chosen took supplies and their trumpets. Gideon sent all the men of Israel back to their homes; he kept only three hundred men. Now the Midianites were camped down below in the valley.
Gideon Reassured of Victory That night the LORD said to Gideon,“Get up! Attack the camp, for I am handing it over to you.
But if you are afraid to attack, go down to the camp with Purah your servant
and listen to what they are saying. Then you will be brave and attack the camp.” So he went down with Purah his servant to where the sentries were guarding the camp.
Now the Midianites, Amalekites, and the people from the east covered the valley like a swarm of locusts. Their camels could not be counted; they were as innumerable as the sand on the seashore.
When Gideon arrived, he heard a man telling another man about a dream he had. The man said,“Look! I had a dream. I saw a stale cake of barley bread rolling into the Midianite camp. It hit a tent so hard it knocked it over and turned it upside down. The tent just collapsed.”
The other man said,“Without a doubt this symbolizes the sword of Gideon son of Joash, the Israelite. God is handing Midian and all the army over to him.”
Gideon Routs the Enemy When Gideon heard the report of the dream and its interpretation, he praised God. Then he went back to the Israelite camp and said,“Get up, for the LORD is handing the Midianite army over to you!”
He divided the three hundred men into three units. He gave them all trumpets and empty jars with torches inside them.
He said to them,“Watch me and do as I do. Watch closely! I am going to the edge of the camp. Do as I do!
When I and all who are with me blow our trumpets, you also blow your trumpets all around the camp. Then say,‘For the LORD and for Gideon!’”
Gideon took a hundred men to the edge of the camp at the beginning of the middle watch, just after they had changed the guards. They blew their trumpets and broke the jars they were carrying.
All three units blew their trumpets and broke their jars. They held the torches in their left hand and the trumpets in their right. Then they yelled,“A sword for the LORD and for Gideon!”
They stood in order all around the camp. The whole army ran away; they shouted as they scrambled away.
When the three hundred men blew their trumpets, the LORD caused the Midianites to attack one another with their swords throughout the camp. The army fled to Beth Shittah on the way to Zererah. They went to the border of Abel Meholah near Tabbath.
Israelites from Naphtali, Asher, and Manasseh answered the call and chased the Midianites.
Gideon Appeases the Ephraimites Now Gideon sent messengers throughout the Ephraimite hill country who announced,“Go down and head off the Midianites. Take control of the fords of the streams all the way to Beth Barah and the Jordan River.” When all the Ephraimites had assembled, they took control of the fords all the way to Beth Barah and the Jordan River.
They captured the two Midianite generals, Oreb and Zeeb. They executed Oreb on the rock of Oreb and Zeeb in the winepress of Zeeb. They chased the Midianites and brought the heads of Oreb and Zeeb to Gideon, who was now on the other side of the Jordan River.
8
The Ephraimites said to him,“Why have you done such a thing to us? You did not summon us when you went to fight the Midianites!” They argued vehemently with him.
He said to them,“Now what have I accomplished compared to you? Even Ephraim’s leftover grapes are better quality than Abiezer’s harvest!
It was to you that God handed over the Midianite generals, Oreb and Zeeb! What did I accomplish to rival that?” When he said this, they calmed down.
Gideon Tracks Down the Midianite Kings Now Gideon and his three hundred men had crossed over the Jordan River, and even though they were exhausted, they were still chasing the Midianites.
He said to the men of Succoth,“Give some loaves of bread to the men who are following me, because they are exhausted. I am chasing Zebah and Zalmunna, the kings of Midian.”
The officials of Succoth said,“You have not yet overpowered Zebah and Zalmunna. So why should we give bread to your army?”
Gideon said,“Since you will not help, after the LORD hands Zebah and Zalmunna over to me, I will thresh your skin with desert thorns and briers.”
He went up from there to Penuel and made the same request. The men of Penuel responded the same way the men of Succoth had.
He also threatened the men of Penuel, warning,“When I return victoriously, I will tear down this tower.”
Now Zebah and Zalmunna were in Karkor with their armies. There were about fifteen thousand survivors from the army of the eastern peoples; a hundred and twenty thousand sword-wielding soldiers had been killed.
Gideon went up the road of the nomads east of Nobah and Jogbehah and ambushed the surprised army.
When Zebah and Zalmunna ran away, Gideon chased them and captured the two Midianite kings, Zebah and Zalmunna. He had surprised their entire army.
Gideon son of Joash returned from the battle by the pass of Heres.
He captured a young man from Succoth and interrogated him. The young man wrote down for him the names of Succoth’s officials and city leaders– seventy-seven men in all.
He approached the men of Succoth and said,“Look what I have! Zebah and Zalmunna! You insulted me, saying,‘You have not yet overpowered Zebah and Zalmunna. So why should we give bread to your exhausted men?’”
He seized the leaders of the city, along with some desert thorns and briers; he then“threshed” the men of Succoth with them.
He also tore down the tower of Penuel and executed the city’s men.
He said to Zebah and Zalmunna,“Describe for me the men you killed at Tabor.” They said,“They were like you. Each one looked like a king’s son.”
He said,“They were my brothers, the sons of my mother. I swear, as surely as the LORD is alive, if you had let them live, I would not kill you.”
He ordered Jether his firstborn son,“Come on! Kill them!” But Jether was too afraid to draw his sword, because he was still young.
Zebah and Zalmunna said to Gideon,“Come on, you strike us, for a man is judged by his strength.” So Gideon killed Zebah and Zalmunna, and he took the crescent-shaped ornaments which were on the necks of their camels.
Gideon Rejects a Crown but Makes an Ephod The men of Israel said to Gideon,“Rule over us– you, your son, and your grandson. For you have delivered us from Midian’s power.”
Gideon said to them,“I will not rule over you, nor will my son rule over you. The LORD will rule over you.”
Gideon continued,“I would like to make one request. Each of you give me an earring from the plunder you have taken.”(The Midianites had gold earrings because they were Ishmaelites.)
They said,“We are happy to give you earrings.” So they spread out a garment, and each one threw an earring from his plunder onto it.
The total weight of the gold earrings he requested came to seventeen hundred gold shekels. This was in addition to the crescent-shaped ornaments, jewelry, purple clothing worn by the Midianite kings, and the necklaces on the camels.
Gideon used all this to make an ephod, which he put in his hometown of Ophrah. All the Israelites prostituted themselves to it by worshiping it there. It became a snare to Gideon and his family.
Gideon’s Story Ends The Israelites humiliated Midian; the Midianites’ fighting spirit was broken. The land had rest for forty years during Gideon’s time.
Then Jerub-Baal son of Joash went home and settled down.
Gideon fathered seventy sons through his many wives.
His concubine, who lived in Shechem, also gave him a son, whom he named Abimelech.
Gideon son of Joash died at a very old age and was buried in the tomb of his father Joash located in Ophrah of the Abiezrites.
Israel Returns to Baal-Worship After Gideon died, the Israelites again prostituted themselves to the Baals. They made Baal-Berith their god.
The Israelites did not remain true to the LORD their God, who had delivered them from all the enemies who lived around them.
They did not treat the family of Jerub-Baal(that is, Gideon) fairly in return for all the good he had done for Israel.
9
Abimelech Murders His Brothers Now Abimelech son of Jerub-Baal went to Shechem to see his mother’s relatives. He said to them and to his mother’s entire extended family,
“Tell all the leaders of Shechem this:‘Why would you want to have seventy men, all Jerub-Baal’s sons, ruling over you, when you can have just one ruler? Recall that I am your own flesh and blood.’”
His mother’s relatives spoke on his behalf to all the leaders of Shechem and reported his proposal. The leaders were drawn to Abimelech; they said,“He is our close relative.”
They paid him seventy silver shekels out of the temple of Baal-Berith. Abimelech then used the silver to hire some lawless, dangerous men as his followers.
He went to his father’s home in Ophrah and murdered his half-brothers, the seventy legitimate sons of Jerub-Baal, on one stone. Only Jotham, Jerub-Baal’s youngest son, escaped, because he hid.
All the leaders of Shechem and Beth Millo assembled and then went and made Abimelech king by the oak near the pillar in Shechem.
Jotham’s Parable When Jotham heard the news, he went and stood on the top of Mount Gerizim. He spoke loudly to the people below,“Listen to me, leaders of Shechem, so that God may listen to you!
“The trees were determined to go out and choose a king for themselves. They said to the olive tree,‘Be our king!’
But the olive tree said to them,‘I am not going to stop producing my oil, which is used to honor gods and men, just to sway above the other trees!’
“So the trees said to the fig tree,‘You come and be our king!’
But the fig tree said to them,‘I am not going to stop producing my sweet figs, my excellent fruit, just to sway above the other trees!’
“So the trees said to the grapevine,‘You come and be our king!’
But the grapevine said to them,‘I am not going to stop producing my wine, which makes gods and men so happy, just to sway above the other trees!’
“So all the trees said to the thornbush,‘You come and be our king!’
The thornbush said to the trees,‘If you really want to choose me as your king, then come along, find safety under my branches! Otherwise may fire blaze from the thornbush and consume the cedars of Lebanon!’
“Now, if you have shown loyalty and integrity when you made Abimelech king, if you have done right to Jerub-Baal and his family, if you have properly repaid him–
my father fought for you; he risked his life and delivered you from Midian’s power.
But you have attacked my father’s family today. You murdered his seventy legitimate sons on one stone and made Abimelech, the son of his female slave, king over the leaders of Shechem, just because he is your close relative.
So if you have shown loyalty and integrity to Jerub-Baal and his family today, then may Abimelech bring you happiness and may you bring him happiness!
But if not, may fire blaze from Abimelech and consume the leaders of Shechem and Beth Millo! May fire also blaze from the leaders of Shechem and Beth Millo and consume Abimelech!”
Then Jotham ran away to Beer and lived there to escape from Abimelech his half-brother.
God Fulfills Jotham’s Curse Abimelech commanded Israel for three years.
God sent a spirit to stir up hostility between Abimelech and the leaders of Shechem. He made the leaders of Shechem disloyal to Abimelech.
He did this so the violent deaths of Jerub-Baal’s seventy sons might be avenged and Abimelech, their half-brother who murdered them, might have to pay for their spilled blood, along with the leaders of Shechem who helped him murder them.
The leaders of Shechem rebelled against Abimelech by putting bandits in the hills, who robbed everyone who traveled by on the road. But Abimelech found out about it.
Gaal son of Ebed came through Shechem with his brothers. The leaders of Shechem transferred their loyalty to him.
They went out to the field, harvested their grapes, squeezed out the juice, and celebrated. They came to the temple of their god and ate, drank, and cursed Abimelech.
Gaal son of Ebed said,“Who is Abimelech and who is Shechem, that we should serve him? Is he not the son of Jerub-Baal, and is not Zebul the deputy he appointed? Serve the sons of Hamor, the father of Shechem! But why should we serve Abimelech?
If only these men were under my command, I would get rid of Abimelech!” He challenged Abimelech,“Muster your army and come out for battle!”
When Zebul, the city commissioner, heard the words of Gaal son of Ebed, he was furious.
He sent messengers to Abimelech, who was in Arumah, reporting,“Beware! Gaal son of Ebed and his brothers are coming to Shechem and inciting the city to rebel against you.
Now, come up at night with your men and set an ambush in the field outside the city.
In the morning at sunrise quickly attack the city. When he and his men come out to fight you, do what you can to him.”
So Abimelech and all his men came up at night and set an ambush outside Shechem– they divided into four units.
When Gaal son of Ebed came out and stood at the entrance to the city’s gate, Abimelech and his men got up from their hiding places.
Gaal saw the men and said to Zebul,“Look, men are coming down from the tops of the hills.” But Zebul said to him,“You are seeing the shadows on the hills– it just looks like men.”
Gaal again said,“Look, men are coming down from the very center of the land. A unit is coming by way of the Oak Tree of the Diviners.”
Zebul said to him,“Where now are your bragging words,‘Who is Abimelech that we should serve him?’ Are these not the men you insulted? Go out now and fight them!”
So Gaal led the leaders of Shechem out and fought Abimelech.
Abimelech chased him, and Gaal ran from him. Many Shechemites fell wounded at the entrance of the gate.
Abimelech went back to Arumah; Zebul drove Gaal and his brothers out of Shechem.
The next day the Shechemites came out to the field. When Abimelech heard about it,
he took his men and divided them into three units and set an ambush in the field. When he saw the people coming out of the city, he attacked and struck them down.
Abimelech and his units attacked and blocked the entrance to the city’s gate. Two units then attacked all the people in the field and struck them down.
Abimelech fought against the city all that day. He captured the city and killed all the people in it. Then he leveled the city and spread salt over it.
When all the leaders of the Tower of Shechem heard the news, they went to the stronghold of the temple of El-Berith.
Abimelech heard that all the leaders of the Tower of Shechem were in one place.
He and all his men went up on Mount Zalmon. He took an ax in his hand and cut off a tree branch. He put it on his shoulder and said to his men,“Quickly, do what you have just seen me do!”
So each of his men also cut off a branch and followed Abimelech. They put the branches against the stronghold and set fire to it. All the people of the Tower of Shechem died– about a thousand men and women.
Abimelech moved on to Thebez; he besieged and captured it.
There was a fortified tower in the center of the city, so all the men and women, as well as the city’s leaders, ran into it and locked the entrance. Then they went up to the roof of the tower.
Abimelech came and attacked the tower. When he approached the entrance of the tower to set it on fire,
a woman threw an upper millstone down on his head and shattered his skull.
He quickly called to the young man who carried his weapons,“Draw your sword and kill me, so they will not say,‘A woman killed him.’” So the young man stabbed him and he died.
When the Israelites saw that Abimelech was dead, they went home.
God repaid Abimelech for the evil he did to his father by murdering his seventy half-brothers.
God also repaid the men of Shechem for their evil deeds. The curse spoken by Jotham son of Jerub-Baal fell on them.
10
Stability Restored After Abimelech’s death, Tola son of Puah, grandson of Dodo, from the tribe of Issachar, rose up to deliver Israel. He lived in Shamir in the Ephraimite hill country.
He led Israel for twenty-three years, then died and was buried in Shamir.
Jair the Gileadite rose up after him; he led Israel for twenty-two years.
He had thirty sons who rode on thirty donkeys and possessed thirty cities. To this day these towns are called Havvoth Jair– they are in the land of Gilead.
Jair died and was buried in Kamon.
The Lord’s Patience Runs Short The Israelites again did evil in the LORD’s sight. They worshiped the Baals and the Ashtoreths, as well as the gods of Syria, Sidon, Moab, the Ammonites, and the Philistines. They abandoned the LORD and did not worship him.
The LORD was furious with Israel and turned them over to the Philistines and Ammonites.
They ruthlessly oppressed the Israelites that eighteenth year– that is, all the Israelites living east of the Jordan in Amorite country in Gilead.
The Ammonites crossed the Jordan to fight with Judah, Benjamin, and Ephraim. Israel suffered greatly.
The Israelites cried out for help to the LORD:“We have sinned against you. We abandoned our God and worshiped the Baals.”
The LORD said to the Israelites,“Did I not deliver you from Egypt, the Amorites, the Ammonites, the Philistines,
the Sidonians, Amalek, and Midian when they oppressed you? You cried out for help to me, and I delivered you from their power.
But since you abandoned me and worshiped other gods, I will not deliver you again.
Go and cry for help to the gods you have chosen! Let them deliver you from trouble!”
But the Israelites said to the LORD,“We have sinned. You do to us as you see fit, but deliver us today!”
They threw away the foreign gods they owned and worshiped the LORD. Finally the LORD grew tired of seeing Israel suffer so much.
An Outcast Becomes a General The Ammonites assembled and camped in Gilead; the Israelites gathered together and camped in Mizpah.
The leaders of Gilead said to one another,“Who is willing to lead the charge against the Ammonites? He will become the leader of all who live in Gilead!”
11
Now Jephthah the Gileadite was a brave warrior. His mother was a prostitute, but Gilead was his father.
Gilead’s wife also gave him sons. When his wife’s sons grew up, they made Jephthah leave and said to him,“You are not going to inherit any of our father’s wealth, because you are another woman’s son.”
So Jephthah left his half-brothers and lived in the land of Tob. Lawless men joined Jephthah’s gang and traveled with him.
It was some time after this when the Ammonites fought with Israel.
When the Ammonites attacked, the leaders of Gilead asked Jephthah to come back from the land of Tob.
They said,“Come, be our commander, so we can fight with the Ammonites.”
Jephthah said to the leaders of Gilead,“But you hated me and made me leave my father’s house. Why do you come to me now, when you are in trouble?”
The leaders of Gilead said to Jephthah,“That may be true, but now we pledge to you our loyalty. Come with us and fight with the Ammonites. Then you will become the leader of all who live in Gilead.”
Jephthah said to the leaders of Gilead,“All right! If you take me back to fight with the Ammonites and the LORD gives them to me, I will be your leader.”
The leaders of Gilead said to Jephthah,“The LORD will judge any grievance you have against us, if we do not do as you say.”
So Jephthah went with the leaders of Gilead. The people made him their leader and commander. Jephthah repeated the terms of the agreement before the LORD in Mizpah.
Jephthah Gives a History Lesson Jephthah sent messengers to the Ammonite king, saying,“Why have you come against me to attack my land?”
The Ammonite king said to Jephthah’s messengers,“Because Israel stole my land when they came up from Egypt– from the Arnon River in the south to the Jabbok River in the north, and as far west as the Jordan. Now return it peaceably!”
Jephthah sent messengers back to the Ammonite king
and said to him,“This is what Jephthah says,‘Israel did not steal the land of Moab and the land of the Ammonites.
When they left Egypt, Israel traveled through the desert as far as the Red Sea and then came to Kadesh.
Israel sent messengers to the king of Edom, saying,“Please allow us to pass through your land.” But the king of Edom rejected the request. Israel sent the same request to the king of Moab, but he was unwilling to cooperate. So Israel stayed at Kadesh.
Then Israel went through the wilderness and bypassed the land of Edom and the land of Moab. They traveled east of the land of Moab and camped on the other side of the Arnon River; they did not go through Moabite territory(the Arnon was Moab’s border).
Israel sent messengers to King Sihon, the Amorite king who ruled in Heshbon, and said to him,“Please allow us to pass through your land to our land.”
But Sihon did not trust Israel to pass through his territory. He assembled his whole army, camped in Jahaz, and fought with Israel.
The LORD God of Israel handed Sihon and his whole army over to Israel and they defeated them. Israel took all the land of the Amorites who lived in that land.
They took all the Amorite territory from the Arnon River on the south to the Jabbok River on the north, from the desert in the east to the Jordan in the west.
Since the LORD God of Israel has driven out the Amorites before his people Israel, do you think you can just take it from them?
You have the right to take what Chemosh your god gives you, but we will take the land of all whom the LORD our God has driven out before us.
Are you really better than Balak son of Zippor, king of Moab? Did he dare to quarrel with Israel? Did he dare to fight with them?
Israel has been living in Heshbon and its nearby towns, in Aroer and its nearby towns, and in all the cities along the Arnon for three hundred years! Why did you not reclaim them during that time?
I have not done you wrong, but you are doing wrong by attacking me. May the LORD, the Judge, judge this day between the Israelites and the Ammonites!’”
But the Ammonite king disregarded the message sent by Jephthah.
A Foolish Vow Spells Death for a Daughter The LORD’s Spirit empowered Jephthah. He passed through Gilead and Manasseh and went to Mizpah in Gilead. From there he approached the Ammonites.
Jephthah made a vow to the LORD, saying,“If you really do hand the Ammonites over to me,
then whoever is the first to come through the doors of my house to meet me when I return safely from fighting the Ammonites– he will belong to the LORD and I will offer him up as a burnt sacrifice.”
Jephthah approached the Ammonites to fight with them, and the LORD handed them over to him.
He defeated them from Aroer all the way to Minnith– twenty cities in all, even as far as Abel Keramim! He wiped them out! The Israelites humiliated the Ammonites.
When Jephthah came home to Mizpah, there was his daughter hurrying out to meet him, dancing to the rhythm of tambourines. She was his only child; except for her he had no son or daughter.
When he saw her, he ripped his clothes and said,“Oh no! My daughter! You have completely ruined me! You have brought me disaster! I made an oath to the LORD, and I cannot break it.”
She said to him,“My father, since you made an oath to the LORD, do to me as you promised. After all, the LORD vindicated you before your enemies, the Ammonites.”
She then said to her father,“Please grant me this one wish. For two months allow me to walk through the hills with my friends and mourn my virginity.”
He said,“You may go.” He permitted her to leave for two months. She went with her friends and mourned her virginity as she walked through the hills.
After two months she returned to her father, and he did to her as he had vowed. She died a virgin. Her tragic death gave rise to a custom in Israel.
Every year Israelite women commemorate the daughter of Jephthah the Gileadite for four days.
12
Civil Strife Mars the Victory The Ephraimites assembled and crossed over to Zaphon. They said to Jephthah,“Why did you go and fight with the Ammonites without asking us to go with you? We will burn your house down right over you!”
Jephthah said to them,“My people and I were in a struggle and the Ammonites were oppressing me greatly. I asked for your help, but you did not deliver me from their power.
When I saw that you were not going to help, I risked my life and advanced against the Ammonites, and the LORD handed them over to me. Why have you come up to fight with me today?”
Jephthah assembled all the men of Gilead and they fought with Ephraim. The men of Gilead defeated Ephraim, because the Ephraimites insulted them, saying,“You Gileadites are refugees in Ephraim, living within Ephraim’s and Manasseh’s territory.”
The Gileadites captured the fords of the Jordan River opposite Ephraim. Whenever an Ephraimite fugitive said,“Let me cross over,” the men of Gilead asked him,“Are you an Ephraimite?” If he said,“No,”
then they said to him,“Say‘Shibboleth!’” If he said,“Sibboleth”(and could not pronounce the word correctly), they grabbed him and executed him right there at the fords of the Jordan. On that day forty-two thousand Ephraimites fell dead.
Jephthah led Israel for six years; then he died and was buried in his city in Gilead.
Order Restored After him Ibzan of Bethlehem led Israel.
He had thirty sons. He arranged for thirty of his daughters to be married outside his extended family, and he arranged for thirty young women to be brought from outside as wives for his sons. Ibzan led Israel for seven years;
then he died and was buried in Bethlehem.
After him Elon the Zebulunite led Israel for ten years.
Then Elon the Zebulunite died and was buried in Aijalon in the land of Zebulun.
After him Abdon son of Hillel the Pirathonite led Israel.
He had forty sons and thirty grandsons who rode on seventy donkeys. He led Israel for eight years.
Then Abdon son of Hillel the Pirathonite died and was buried in Pirathon in the land of Ephraim, in the hill country of the Amalekites.
13
Samson’s Birth The Israelites again did evil in the LORD’s sight, so the LORD handed them over to the Philistines for forty years.
There was a man named Manoah from Zorah, from the Danite tribe. His wife was infertile and childless.
The LORD’s angel appeared to the woman and said to her,“You are infertile and childless, but you will conceive and have a son.
Now be careful! Do not drink wine or beer, and do not eat any food that will make you ritually unclean.
Look, you will conceive and have a son. You must never cut his hair, for the child will be dedicated to God from birth. He will begin to deliver Israel from the power of the Philistines.”
The woman went and said to her husband,“A man sent from God came to me! He looked like God’s angel– he was very awesome. I did not ask him where he came from, and he did not tell me his name.
He said to me,‘Look, you will conceive and have a son. So now, do not drink wine or beer and do not eat any food that will make you ritually unclean. For the child will be dedicated to God from birth till the day he dies.’”
Manoah prayed to the LORD,“Please, Lord, allow the man sent from God to visit us again, so he can teach us how we should raise the child who will be born.”
God answered Manoah’s prayer. God’s angel visited the woman again while she was sitting in the field. But her husband Manoah was not with her.
The woman ran at once and told her husband,“Come quickly, the man who visited me the other day has appeared to me!”
So Manoah got up and followed his wife. When he met the man, he said to him,“Are you the man who spoke to my wife?” He said,“Yes.”
Manoah said,“Now, when your announcement comes true, how should the child be raised and what should he do?”
The LORD’s angel told Manoah,“Your wife should pay attention to everything I told her.
She should not drink anything that the grapevine produces. She must not drink wine or beer, and she must not eat any food that will make her ritually unclean. She should obey everything I commanded her to do.”
Manoah said to the LORD’s angel,“Please stay here awhile, so we can prepare a young goat for you to eat.”
The LORD’s angel said to Manoah,“If I stay, I will not eat your food. But if you want to make a burnt sacrifice to the LORD, you should offer it.”(He said this because Manoah did not know that he was the LORD’s angel.)
Manoah said to the LORD’s angel,“Tell us your name, so we can honor you when your announcement comes true.”
The LORD’s angel said to him,“You should not ask me my name, because you cannot comprehend it.”
Manoah took a young goat and a grain offering and offered them on a rock to the LORD. The LORD’s messenger did an amazing thing as Manoah and his wife watched.
As the flame went up from the altar toward the sky, the LORD’s angel went up in it while Manoah and his wife watched. They fell facedown to the ground.
The LORD’s angel did not appear again to Manoah and his wife. After all this happened Manoah realized that the visitor had been the LORD’s angel.
Manoah said to his wife,“We will certainly die, because we have seen a supernatural being!”
But his wife said to him,“If the LORD wanted to kill us, he would not have accepted the burnt offering and the grain offering from us. He would not have shown us all these things, or have spoken to us like this just now.”
Manoah’s wife gave birth to a son and named him Samson. The child grew and the LORD empowered him.
The LORD’s Spirit began to control him in Mahaneh Dan between Zorah and Eshtaol.
14
Samson’s Unconsummated Marriage Samson went down to Timnah, where a Philistine girl caught his eye.
When he got home, he told his father and mother,“A Philistine girl in Timnah has caught my eye. Now get her for my wife.”
But his father and mother said to him,“Certainly you can find a wife among your relatives or among all our people! You should not have to go and get a wife from the uncircumcised Philistines.” But Samson said to his father,“Get her for me, because she is the right one for me.”
Now his father and mother did not realize this was the LORD’s doing, because he was looking for an opportunity to stir up trouble with the Philistines(for at that time the Philistines were ruling Israel).
Samson went down to Timnah. When he approached the vineyards of Timnah, he saw a roaring young lion attacking him.
The LORD’s Spirit empowered him and he tore the lion in two with his bare hands as easily as one would tear a young goat. But he did not tell his father or mother what he had done.
Samson continued on down to Timnah and spoke to the girl. In his opinion, she was just the right one.
Some time later, when he went back to marry her, he turned aside to see the lion’s remains. He saw a swarm of bees in the lion’s carcass, as well as some honey.
He scooped it up with his hands and ate it as he walked along. When he returned to his father and mother, he offered them some and they ate it. But he did not tell them he had scooped the honey out of the lion’s carcass.
Then Samson’s father accompanied him to Timnah for the marriage. Samson hosted a party there, for this was customary for bridegrooms to do.
When the Philistines saw he had no attendants, they gave him thirty groomsmen who kept him company.
Samson said to them,“I will give you a riddle. If you really can solve it during the seven days the party lasts, I will give you thirty linen robes and thirty sets of clothes.
But if you cannot solve it, you will give me thirty linen robes and thirty sets of clothes.” They said to him,“Let us hear your riddle.”
He said to them,“Out of the one who eats came something to eat; out of the strong one came something sweet.”They could not solve the riddle for three days.
On the fourth day they said to Samson’s bride,“Trick your husband into giving the solution to the riddle. If you refuse, we will burn up you and your father’s family. Did you invite us here to make us poor?”
So Samson’s bride cried on his shoulder and said,“You must hate me; you do not love me! You told the young men a riddle, but you have not told me the solution.” He said to her,“Look, I have not even told my father or mother. Do you really expect me to tell you?”
She cried on his shoulder until the party was almost over. Finally, on the seventh day, he told her because she had nagged him so much. Then she told the young men the solution to the riddle.
On the seventh day, before the sun set, the men of the city said to him,“What is sweeter than honey? What is stronger than a lion?”He said to them,“If you had not plowed with my heifer, you would not have solved my riddle!”
The LORD’s Spirit empowered him. He went down to Ashkelon and killed thirty men. He took their clothes and gave them to the men who had solved the riddle. He was furious as he went back home.
Samson’s bride was then given to his best man.
15
Samson Versus the Philistines Sometime later, during the wheat harvest, Samson took a young goat as a gift and went to visit his bride. He said to her father,“I want to sleep with my bride in her bedroom!” But her father would not let him enter.
Her father said,“I really thought you absolutely despised her, so I gave her to your best man. Her younger sister is more attractive than she is. Take her instead!”
Samson said to them,“This time I am justified in doing the Philistines harm!”
Samson went and captured three hundred jackals and got some torches. He tied the jackals in pairs by their tails and then tied a torch to each pair.
He lit the torches and set the jackals loose in the Philistines’ standing grain. He burned up the grain heaps and the standing grain, as well as the vineyards and olive groves.
The Philistines asked,“Who did this?” They were told,“Samson, the Timnite’s son-in-law, because the Timnite took Samson’s bride and gave her to his best man.” So the Philistines went up and burned her and her father.
Samson said to them,“Because you did this, I will get revenge against you before I quit fighting.”
He struck them down and defeated them. Then he went down and lived for a time in the cave in the cliff of Etam.
The Philistines went up and invaded Judah. They arrayed themselves for battle in Lehi.
The men of Judah said,“Why are you attacking us?” The Philistines said,“We have come up to take Samson prisoner so we can do to him what he has done to us.”
Three thousand men of Judah went down to the cave in the cliff of Etam and said to Samson,“Do you not know that the Philistines rule over us? Why have you done this to us?” He said to them,“I have only done to them what they have done to me.”
They said to him,“We have come down to take you prisoner so we can hand you over to the Philistines.” Samson said to them,“Promise me you will not kill me.”
They said to him,“We promise! We will only take you prisoner and hand you over to them. We promise not to kill you.” They tied him up with two brand new ropes and led him up from the cliff.
When he arrived in Lehi, the Philistines shouted as they approached him. But the LORD’s Spirit empowered him. The ropes around his arms were like flax dissolving in fire, and they melted away from his hands.
He happened to see a solid jawbone of a donkey. He grabbed it and struck down a thousand men.
Samson then said,“With the jawbone of a donkey I have left them in heaps; with the jawbone of a donkey I have struck down a thousand men!”
When he finished speaking, he threw the jawbone down and named that place Ramath Lehi.
He was very thirsty, so he cried out to the LORD and said,“You have given your servant this great victory. But now must I die of thirst and fall into hands of these uncircumcised Philistines?”
So God split open the basin at Lehi and water flowed out from it. When he took a drink, his strength was restored and he revived. For this reason he named the spring En Hakkore. It remains in Lehi to this very day.
Samson led Israel for twenty years during the days of Philistine prominence.
16
Samson’s Downfall Samson went to Gaza. There he saw a prostitute and slept with her.
The Gazites were told,“Samson has come here!” So they surrounded the town and hid all night at the city gate, waiting for him to leave. They relaxed all night, thinking,“He will not leave until morning comes; then we will kill him!”
Samson spent half the night with the prostitute; then he got up in the middle of the night and left. He grabbed the doors of the city gate, as well as the two posts, and pulled them right off, bar and all. He put them on his shoulders and carried them up to the top of a hill east of Hebron.
After this Samson fell in love with a woman named Delilah, who lived in the Sorek Valley.
The rulers of the Philistines went up to visit her and said to her,“Trick him! Find out what makes him so strong and how we can subdue him and humiliate him. Each one of us will give you eleven hundred silver pieces.”
So Delilah said to Samson,“Tell me what makes you so strong and how you can be subdued and humiliated.”
Samson said to her,“If they tie me up with seven fresh bowstrings that have not been dried, I will become weak and be just like any other man.”
So the rulers of the Philistines brought her seven fresh bowstrings which had not been dried and she tied him up with them.
They hid in the bedroom and then she said to him,“The Philistines are here, Samson!” He snapped the bowstrings as easily as a thread of yarn snaps when it is put close to fire. The secret of his strength was not discovered.
Delilah said to Samson,“Look, you deceived me and told me lies! Now tell me how you can be subdued.”
He said to her,“If they tie me tightly with brand new ropes that have never been used, I will become weak and be just like any other man.”
So Delilah took new ropes and tied him with them and said to him,“The Philistines are here, Samson!”(The Philistines were hiding in the bedroom.) But he tore the ropes from his arms as if they were a piece of thread.
Delilah said to Samson,“Up to now you have deceived me and told me lies. Tell me how you can be subdued.” He said to her,“If you weave the seven braids of my hair into the fabric on the loom and secure it with the pin, I will become weak and be like any other man.”
So she made him go to sleep, wove the seven braids of his hair into the fabric on the loom, fastened it with the pin, and said to him,“The Philistines are here, Samson!” He woke up and tore away the pin of the loom and the fabric.
She said to him,“How can you say,‘I love you,’ when you will not share your secret with me? Three times you have deceived me and have not told me what makes you so strong.”
She nagged him every day and pressured him until he was sick to death of it.
Finally he told her his secret. He said to her,“My hair has never been cut, for I have been dedicated to God from the time I was conceived. If my head were shaved, my strength would leave me; I would become weak, and be just like all other men.”
When Delilah saw that he had told her his secret, she sent for the rulers of the Philistines, saying,“Come up here again, for he has told me his secret.” So the rulers of the Philistines went up to visit her, bringing the silver in their hands.
She made him go to sleep on her lap and then called a man in to shave off the seven braids of his hair. She made him vulnerable and his strength left him.
She said,“The Philistines are here, Samson!” He woke up and thought,“I will do as I did before and shake myself free.” But he did not realize that the LORD had left him.
The Philistines captured him and gouged out his eyes. They brought him down to Gaza and bound him in bronze chains. He became a grinder in the prison.
His hair began to grow back after it had been shaved off.
Samson’s Death and Burial The rulers of the Philistines gathered to offer a great sacrifice to Dagon their god and to celebrate. They said,“Our god has handed Samson, our enemy, over to us.”
When the people saw him, they praised their god, saying,“Our god has handed our enemy over to us, the one who ruined our land and killed so many of us!”
When they really started celebrating, they said,“Call for Samson so he can entertain us!” So they summoned Samson from the prison and he entertained them. They made him stand between two pillars.
Samson said to the young man who held his hand,“Position me so I can touch the pillars that support the temple. Then I can lean on them.”
Now the temple was filled with men and women, and all the rulers of the Philistines were there. There were three thousand men and women on the roof watching Samson entertain.
Samson called to the LORD,“O Sovereign LORD, remember me! Strengthen me just one more time, O God, so I can get swift revenge against the Philistines for my two eyes!”
Samson took hold of the two middle pillars that supported the temple and he leaned against them, with his right hand on one and his left hand on the other.
Samson said,“Let me die with the Philistines!” He pushed hard and the temple collapsed on the rulers and all the people in it. He killed many more people in his death than he had killed during his life.
His brothers and all his family went down and brought him back. They buried him between Zorah and Eshtaol in the tomb of Manoah his father. He had led Israel for twenty years.
17
Micah Makes His Own Religion There was a man named Micah from the Ephraimite hill country.
He said to his mother,“You know the eleven hundred pieces of silver which were stolen from you, about which I heard you pronounce a curse? Look here, I have the silver. I stole it, but now I am giving it back to you.” His mother said,“May the LORD reward you, my son!”
When he gave back to his mother the eleven hundred pieces of silver, his mother said,“I solemnly dedicate this silver to the LORD. It will be for my son’s benefit. We will use it to make a carved image and a metal image.”
When he gave the silver back to his mother, she took two hundred pieces of silver to a silversmith, who made them into a carved image and a metal image. She then put them in Micah’s house.
Now this man Micah owned a shrine. He made an ephod and some personal idols and hired one of his sons to serve as a priest.
In those days Israel had no king. Each man did what he considered to be right.
Micah Hires a Professional There was a young man from Bethlehem in Judah. He was a Levite who had been temporarily residing among the tribe of Judah.
This man left the town of Bethlehem in Judah to find another place to live. He came to the Ephraimite hill country and made his way to Micah’s house.
Micah said to him,“Where do you come from?” He replied,“I am a Levite from Bethlehem in Judah. I am looking for a new place to live.”
Micah said to him,“Stay with me. Become my adviser and priest. I will give you ten pieces of silver per year, plus clothes and food.”
So the Levite agreed to stay with the man; the young man was like a son to Micah.
Micah paid the Levite; the young man became his priest and lived in Micah’s house.
Micah said,“Now I know the LORD will make me rich, because I have this Levite as my priest.”
18
The Tribe of Dan Finds an Inheritance In those days Israel had no king. And in those days the Danite tribe was looking for a place to settle, because at that time they did not yet have a place to call their own among the tribes of Israel.
The Danites sent out from their whole tribe five representatives, capable men from Zorah and Eshtaol, to spy out the land and explore it. They said to them,“Go, explore the land.” They came to the Ephraimite hill country and spent the night at Micah’s house.
As they approached Micah’s house, they recognized the accent of the young Levite. So they stopped there and said to him,“Who brought you here? What are you doing in this place? What is your business here?”
He told them what Micah had done for him, saying,“He hired me and I became his priest.”
They said to him,“Seek a divine oracle for us, so we can know if we will be successful on our mission.”
The priest said to them,“Go with confidence. The LORD will be with you on your mission.”
So the five men journeyed on and arrived in Laish. They noticed that the people there were living securely, like the Sidonians do, undisturbed and unsuspecting. No conqueror was troubling them in any way. They lived far from the Sidonians and had no dealings with anyone.
When the Danites returned to their tribe in Zorah and Eshtaol, their kinsmen asked them,“How did it go?”
They said,“Come on, let’s attack them, for we saw their land and it is very good. You seem lethargic, but don’t hesitate to invade and conquer the land.
When you invade, you will encounter unsuspecting people. The land is wide! God is handing it over to you– a place that lacks nothing on earth!”
So six hundred Danites, fully armed, set out from Zorah and Eshtaol.
They went up and camped in Kiriath Jearim in Judah.(To this day that place is called Camp of Dan. It is west of Kiriath Jearim.)
From there they traveled through the Ephraimite hill country and arrived at Micah’s house.
The five men who had gone to spy out the land of Laish said to their kinsmen,“Do you realize that inside these houses are an ephod, some personal idols, a carved image, and a metal image? Decide now what you want to do.”
They stopped there, went inside the young Levite’s house(which belonged to Micah), and asked him how he was doing.
Meanwhile the six hundred Danites, fully armed, stood at the entrance to the gate.
The five men who had gone to spy out the land broke in and stole the carved image, the ephod, the personal idols, and the metal image, while the priest was standing at the entrance to the gate with the six hundred fully armed men.
When these men broke into Micah’s house and stole the carved image, the ephod, the personal idols, and the metal image, the priest said to them,“What are you doing?”
They said to him,“Shut up! Put your hand over your mouth and come with us! You can be our adviser and priest. Wouldn’t it be better to be a priest for a whole Israelite tribe than for just one man’s family?”
The priest was happy. He took the ephod, the personal idols, and the carved image and joined the group.
They turned and went on their way, but they walked behind the children, the cattle, and their possessions.
After they had gone a good distance from Micah’s house, Micah’s neighbors gathered together and caught up with the Danites.
When they called out to the Danites, the Danites turned around and said to Micah,“Why have you gathered together?”
He said,“You stole my gods that I made, as well as this priest, and then went away. What do I have left? How can you have the audacity to say to me,‘What do you want?’”
The Danites said to him,“Don’t say another word to us, or some very angry men will attack you, and you and your family will die.”
The Danites went on their way; when Micah realized they were too strong to resist, he turned around and went home.
Now the Danites took what Micah had made, as well as his priest, and came to Laish, where the people were undisturbed and unsuspecting. They struck them down with the sword and burned the city.
No one came to the rescue because the city was far from Sidon and they had no dealings with anyone. The city was in a valley near Beth Rehob. The Danites rebuilt the city and occupied it.
They named it Dan after their ancestor, who was one of Israel’s sons. But the city’s name used to be Laish.
The Danites worshiped the carved image. Jonathan, descendant of Gershom, son of Moses, and his descendants served as priests for the tribe of Dan until the time of the exile.
They worshiped Micah’s carved image the whole time God’s authorized shrine was in Shiloh.
19
Sodom and Gomorrah Revisited In those days Israel had no king. There was a Levite living temporarily in the remote region of the Ephraimite hill country. He acquired a concubine from Bethlehem in Judah.
However, she got angry at him and went home to her father’s house in Bethlehem in Judah. When she had been there four months,
her husband came after her, hoping he could convince her to return. He brought with him his servant and a pair of donkeys. When she brought him into her father’s house and the girl’s father saw him, he greeted him warmly.
His father-in-law, the girl’s father, persuaded him to stay with him for three days, and they ate and drank together, and spent the night there.
On the fourth day they woke up early and the Levite got ready to leave. But the girl’s father said to his son-in-law,“Have a bite to eat for some energy, then you can go.”
So the two of them sat down and had a meal together. Then the girl’s father said to the man,“Why not stay another night and have a good time!”
When the man got ready to leave, his father-in-law convinced him to stay another night.
He woke up early in the morning on the fifth day so he could leave, but the girl’s father said,“Get some energy. Wait until later in the day to leave!” So they ate a meal together.
When the man got ready to leave with his concubine and his servant, his father-in-law, the girl’s father, said to him,“Look! The day is almost over! Stay another night! Since the day is over, stay another night here and have a good time. You can get up early tomorrow and start your trip home.”
But the man did not want to stay another night. He left and traveled as far as Jebus(that is, Jerusalem). He had with him a pair of saddled donkeys and his concubine.
When they got near Jebus, it was getting quite late and the servant said to his master,“Come on, let’s stop at this Jebusite city and spend the night in it.”
But his master said to him,“We should not stop at a foreign city where non-Israelites live. We will travel on to Gibeah.”
He said to his servant,“Come on, we will go into one of the other towns and spend the night in Gibeah or Ramah.”
So they traveled on, and the sun went down when they were near Gibeah in the territory of Benjamin.
They stopped there and decided to spend the night in Gibeah. They came into the city and sat down in the town square, but no one invited them to spend the night.
But then an old man passed by, returning at the end of the day from his work in the field. The man was from the Ephraimite hill country; he was living temporarily in Gibeah.(The residents of the town were Benjaminites.)
When he looked up and saw the traveler in the town square, the old man said,“Where are you heading? Where do you come from?”
The Levite said to him,“We are traveling from Bethlehem in Judah to the remote region of the Ephraimite hill country. That’s where I’m from. I had business in Bethlehem in Judah, but now I’m heading home. But no one has invited me into their home.
We have enough straw and grain for our donkeys, and there is enough food and wine for me, your female servant, and the young man who is with your servants. We lack nothing.”
The old man said,“Everything is just fine! I will take care of all your needs. But don’t spend the night in the town square.”
So he brought him to his house and fed the donkeys. They washed their feet and had a meal.
They were having a good time, when suddenly some men of the city, some good-for-nothings, surrounded the house and kept beating on the door. They said to the old man who owned the house,“Send out the man who came to visit you so we can take carnal knowledge of him.”
The man who owned the house went outside and said to them,“No, my brothers! Don’t do this wicked thing! After all, this man is a guest in my house. Don’t do such a disgraceful thing!
Here are my virgin daughter and my guest’s concubine. I will send them out and you can abuse them and do to them whatever you like. But don’t do such a disgraceful thing to this man!”
The men refused to listen to him, so the Levite grabbed his concubine and made her go outside. They raped her and abused her all night long until morning. They let her go at dawn.
The woman arrived back at daybreak and was sprawled out on the doorstep of the house where her master was staying until it became light.
When her master got up in the morning, opened the doors of the house, and went outside to start on his journey, there was the woman, his concubine, sprawled out on the doorstep of the house with her hands on the threshold.
He said to her,“Get up, let’s leave!” But there was no response. He put her on the donkey and went home.
When he got home, he took a knife, grasped his concubine, and carved her up into twelve pieces. Then he sent the pieces throughout Israel.
Everyone who saw the sight said,“Nothing like this has happened or been witnessed during the entire time since the Israelites left the land of Egypt! Take careful note of it! Discuss it and speak!”
20
Civil War Breaks Out All the Israelites from Dan to Beer Sheba and from the land of Gilead left their homes and assembled together before the LORD at Mizpah.
The leaders of all the people from all the tribes of Israel took their places in the assembly of God’s people, which numbered four hundred thousand sword-wielding foot soldiers.
The Benjaminites heard that the Israelites had gone up to Mizpah. Then the Israelites said,“Explain how this wicked thing happened!”
The Levite, the husband of the murdered woman, spoke up,“I and my concubine stopped in Gibeah in the territory of Benjamin to spend the night.
The leaders of Gibeah attacked me and at night surrounded the house where I was staying. They wanted to kill me; instead they abused my concubine so badly that she died.
I took hold of my concubine and carved her up and sent the pieces throughout the territory occupied by Israel, because they committed such an unthinkable atrocity in Israel.
All you Israelites, make a decision here!”
All Israel rose up in unison and said,“Not one of us will go home! Not one of us will return to his house!
Now this is what we will do to Gibeah: We will attack the city as the lot dictates.
We will take ten of every group of a hundred men from all the tribes of Israel(and a hundred of every group of a thousand, and a thousand of every group of ten thousand) to get supplies for the army. When they arrive in Gibeah of Benjamin they will punish them for the atrocity which they committed in Israel.”
So all the men of Israel gathered together at the city as allies.
The tribes of Israel sent men throughout the tribe of Benjamin, saying,“How could such a wicked thing take place?
Now, hand over the good-for-nothings in Gibeah so we can execute them and purge Israel of wickedness.” But the Benjaminites refused to listen to their Israelite brothers.
The Benjaminites came from their cities and assembled at Gibeah to make war against the Israelites.
That day the Benjaminites mustered from their cities twenty-six thousand sword-wielding soldiers, besides seven hundred well-trained soldiers from Gibeah.
Among this army were seven hundred specially-trained left-handed soldiers. Each one could sling a stone and hit even the smallest target.
The men of Israel(not counting Benjamin) had mustered four hundred thousand sword-wielding soldiers, every one an experienced warrior.
The Israelites went up to Bethel and asked God,“Who should lead the charge against the Benjaminites?” The LORD said,“Judah should lead.”
The Israelites got up the next morning and moved against Gibeah.
The men of Israel marched out to fight Benjamin; they arranged their battle lines against Gibeah.
The Benjaminites attacked from Gibeah and struck down twenty-two thousand Israelites that day.
The Israelite army took heart and once more arranged their battle lines, in the same place where they had taken their positions the day before.
The Israelites went up and wept before the LORD until evening. They asked the LORD,“Should we again march out to fight the Benjaminites, our brothers?” The LORD said,“Attack them!”
So the Israelites marched toward the Benjaminites the next day.
The Benjaminites again attacked them from Gibeah and struck down eighteen thousand sword-wielding Israelite soldiers.
So all the Israelites, the whole army, went up to Bethel. They wept and sat there before the LORD; they did not eat anything that day until evening. They offered up burnt sacrifices and tokens of peace to the LORD.
The Israelites asked the LORD(for the ark of God’s covenant was there in those days;
Phinehas son of Eleazar, son of Aaron, was serving the LORD in those days),“Should we once more march out to fight the Benjaminites our brothers, or should we quit?” The LORD said,“Attack, for tomorrow I will hand them over to you.”
So Israel hid men in ambush outside Gibeah.
The Israelites attacked the Benjaminites the next day; they took their positions against Gibeah just as they had done before.
The Benjaminites attacked the army, leaving the city unguarded. They began to strike down their enemy just as they had done before. On the main roads(one leads to Bethel, the other to Gibeah) and in the field, they struck down about thirty Israelites.
Then the Benjaminites said,“They are defeated just as before.” But the Israelites said,“Let’s retreat and lure them away from the city into the main roads.”
All the men of Israel got up from their places and took their positions at Baal Tamar, while the Israelites hiding in ambush jumped out of their places west of Gibeah.
Ten thousand men, well-trained soldiers from all Israel, then made a frontal assault against Gibeah– the battle was fierce. But the Benjaminites did not realize that disaster was at their doorstep.
The LORD annihilated Benjamin before Israel; the Israelites struck down that day 25,100 sword-wielding Benjaminites.
Then the Benjaminites saw they were defeated.The Israelites retreated before Benjamin, because they had confidence in the men they had hid in ambush outside Gibeah.
The men hiding in ambush made a mad dash to Gibeah. They attacked and put the sword to the entire city.
The Israelites and the men hiding in ambush had arranged a signal. When the men hiding in ambush sent up a smoke signal from the city,
the Israelites counterattacked. Benjamin had begun to strike down the Israelites; they struck down about thirty men. They said,“There’s no doubt about it! They are totally defeated as in the earlier battle.”
But when the signal, a pillar of smoke, began to rise up from the city, the Benjaminites turned around and saw the whole city going up in a cloud of smoke that rose high into the sky.
When the Israelites turned around, the Benjaminites panicked because they could see that disaster was on their doorstep.
They retreated before the Israelites, taking the road to the wilderness. But the battle overtook them as men from the surrounding cities struck them down.
They surrounded the Benjaminites, chased them from Nohah, and annihilated them all the way to a spot east of Geba.
Eighteen thousand Benjaminites, all of them capable warriors, fell dead.
The rest turned and ran toward the wilderness, heading toward the cliff of Rimmon. But the Israelites caught five thousand of them on the main roads. They stayed right on their heels all the way to Gidom and struck down two thousand more.
That day twenty-five thousand sword-wielding Benjaminites fell in battle, all of them capable warriors.
Six hundred survivors turned and ran away to the wilderness, to the cliff of Rimmon. They stayed there four months.
The Israelites returned to the Benjaminite towns and put the sword to them. They wiped out the cities, the animals, and everything they could find. They set fire to every city in their path.
21
600 Brides for 600 Brothers The Israelites had taken an oath in Mizpah, saying,“Not one of us will allow his daughter to marry a Benjaminite.”
So the people came to Bethel and sat there before God until evening, weeping loudly and uncontrollably.
They said,“Why, O LORD God of Israel, has this happened in Israel?” An entire tribe has disappeared from Israel today!”
The next morning the people got up early and built an altar there. They offered up burnt sacrifices and tokens of peace.
The Israelites asked,“Who from all the Israelite tribes has not assembled before the LORD?”They had made a solemn oath that whoever did not assemble before the LORD at Mizpah must certainly be executed.
The Israelites regretted what had happened to their brother Benjamin. They said,“Today we cut off an entire tribe from Israel!
How can we find wives for those who are left? After all, we took an oath in the LORD’s name not to give them our daughters as wives.”
So they asked,“Who from all the Israelite tribes did not assemble before the LORD at Mizpah?” Now it just so happened no one from Jabesh Gilead had come to the gathering.
When they took roll call, they noticed none of the inhabitants of Jabesh Gilead were there.
So the assembly sent 12,000 capable warriors against Jabesh Gilead. They commanded them,“Go and kill with your swords the inhabitants of Jabesh Gilead, including the women and little children.
Do this: exterminate every male, as well as every woman who has experienced a man’s bed. But spare the lives of any virgins.” So they did as instructed.
They found among the inhabitants of Jabesh Gilead four hundred young girls who were virgins who had never been intimate with a man in bed. They brought them back to the camp at Shiloh in the land of Canaan.
The entire assembly sent messengers to the Benjaminites at the cliff of Rimmon and assured them they would not be harmed.
The Benjaminites returned at that time, and the Israelites gave to them the women they had spared from Jabesh Gilead. But there were not enough to go around.
The people regretted what had happened to Benjamin because the LORD had weakened the Israelite tribes.
The leaders of the assembly said,“How can we find wives for those who are left? After all, the Benjaminite women have been wiped out.
The remnant of Benjamin must be preserved. An entire Israelite tribe should not be wiped out.
But we can’t allow our daughters to marry them, for the Israelites took an oath, saying,‘Whoever gives a woman to a Benjaminite will be destroyed!’
However, there is an annual festival to the LORD in Shiloh, which is north of Bethel(east of the main road that goes up from Bethel to Shechem) and south of Lebonah.”
So they commanded the Benjaminites,“Go hide in the vineyards,
and keep your eyes open. When you see the daughters of Shiloh coming out to dance in the celebration, jump out from the vineyards. Each one of you, catch yourself a wife from among the daughters of Shiloh and then go home to the land of Benjamin.
When their fathers or brothers come and protest to us, we’ll say to them,“Do us a favor and let them be, for we could not get each one a wife through battle. Don’t worry about breaking your oath! You would only be guilty if you had voluntarily given them wives.’”
The Benjaminites did as instructed. They abducted two hundred of the dancing girls to be their wives. They went home to their own territory, rebuilt their cities, and settled down.
Then the Israelites dispersed from there to their respective tribal and clan territories. Each went from there to his own property.
In those days Israel had no king. Each man did what he considered to be right.