- New Vietnamese Bible 2014 Xuất Hành XUẤT HÀNH Xuất Hành Xuất XUẤT HÀNH Giới Thiệu Xuất Hành nói về cuộc ra đi của dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, nơi họ bị làm nô lệ trong một thời gian dài. Sách gồm có bốn phần: 1. Dân Y-sơ-ra-ên được giải phóng khỏi ách nô lệ. 2. Cuộc xuất hành đến núi Si-nai. 3. Chúa kết ước với dân Y-sơ-ra-ên; Ngài ban cho họ các luật lệ về đạo đức, tôn giáo, xã hội để sống theo. 4. Xây dựng và cung cấp một nơi thờ phượng Đức Chúa Trời, các quy luật cho thầy tế lễ và cách thờ phượng Chúa. Quan trọng nhất là việc Đức Chúa Trời đã giải phóng dân tộc Ngài chọn và lập họ thành một quốc gia với niềm hy vọng trong tương lai. Nhân vật chính trong sách là Môi-se, người lãnh đạo Chúa chọn để hướng dẫn dân Ngài ra khỏi Ai-cập. Phần sách được biết đến nhiều nhất là Mười Điều Răn trong chương hai mươi. Bố Cục 1. Dân Y-sơ-ra-ên được giải phóng khỏi Ai-cập 1:1–15:21 a. Ách nô lệ tại Ai-cập 1:1-22 b. Cuộc đời của Môi-se 2:1–4:31 c. Môi-se và A-rôn đối diện với vua Ai-cập 5:1–11:10 d. Lễ Vượt Qua và cuộc xuất hành từ Ai-cập 12:1–15:21 2. Từ Biển Đỏ đến núi Si-nai 15:22–18:27 3. Luật Pháp và Giao Ước 19:1–24:18 4. Trại Hội Kiến và các quy luật thờ phượng 25:1–40:38 Dân Y-sơ-ra-ên Bị Áp Bức Sau đây là tên các con trai Y-sơ-ra-ên đã theo Gia-cốp xuống Ai-cập với gia đình mình. Ru-bên, Si-mê-ôn, Lê-vi và Giu-đa, Y-sa-ca, Sa-bu-luân và Bên-gia-min; Đan, Nép-ta-li, Gát và A-se. Tổng cộng số con cháu của Gia-cốp là bảy mươi người; còn Giô-sép đã ở trong xứ Ai-cập. Thế rồi, Giô-sép, tất cả anh em và tất cả người đồng thời với ông đều qua đời. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên sinh sản gia tăng rất nhiều, trở nên rất đông đảo, mạnh mẽ và ở đầy cả xứ. Sau đó có một vua mới lên ngôi cai trị Ai-cập và vua này không biết Giô-sép. Vua bảo thần dân rằng: “Kìa, dân Y-sơ-ra-ên bây giờ quá đông và mạnh hơn chúng ta. Chúng ta phải khôn khéo đối xử với họ, e rằng họ cứ tiếp tục gia tăng và đến khi có chiến tranh, họ sẽ cấu kết với quân thù, đánh lại chúng ta và trốn thoát khỏi xứ.” Vì vậy người Ai-cập đặt những cai nô áp bức dân Y-sơ-ra-ên bằng cách cưỡng bức họ lao động để xây dựng thành Phi-thom và Ram-se làm kho tàng cho Pha-ra-ôn. Nhưng càng bị áp bức bao nhiêu, dân Y-sơ-ra-ên càng sinh sản gia tăng và lan tràn bấy nhiêu, vì vậy người Ai-cập sợ người Y-sơ-ra-ên, và càng bắt họ phục dịch cực khổ, khiến cho người Y-sơ-ra-ên có cuộc sống cay đắng vì phải làm lụng nặng nhọc trong việc nhồi đất sét làm gạch và phải làm đủ thứ công việc đồng áng. Trong mọi công việc người Ai-cập bắt người Y-sơ-ra-ên làm việc cực khổ. Vua Ai-cập bảo các bà đỡ của người Hê-bơ-rơ là Siếp-ra và Phu-a rằng: “Khi đỡ cho các sản phụ Y-sơ-ra-ên hai người phải xem trên bàn sinh,1:16 Nt: hai tảng đá. Dụng cụ giúp sản phụ sinh nếu đứa bé là con trai, hãy giết nó đi. Nếu là con gái, cứ để cho sống.” Tuy nhiên mấy bà đỡ này có lòng kính sợ Đức Chúa Trời không làm theo chỉ thị của vua Ai-cập và cứ để cho các em bé trai sống. Vua Ai-cập đòi hai bà đỡ này đến và hỏi: “Tại sao các người làm như vậy? Tại sao các người để cho những đứa con trai sống?” Hai bà đỡ đáp: “Phụ nữ Hê-bơ-rơ không phải như phụ nữ Ai-cập; họ rất khỏe mạnh và trước khi bà đỡ đến họ đã sinh rồi.” Đức Chúa Trời ban phước cho mấy bà đỡ và dân Y-sơ-ra-ên cứ ngày càng đông và rất mạnh. Vì mấy bà đỡ kính sợ Đức Chúa Trời nên Ngài cho gia đình họ thịnh vượng.1:21 Nt: Ngài ban cho các gia đình Sau đó Pha-ra-ôn ra lệnh cho toàn dân: “Phải ném tất cả con trai của dân Hê-bơ-rơ xuống sông Ninh còn con gái thì để cho sống.” Môi-se Ra Đời Một người trong nhà Lê-vi đi cưới một thiếu nữ Lê-vi. Cô này thụ thai và sinh một bé trai. Thấy con mình xinh đẹp, cô giấu con trong ba tháng. Nhưng khi thấy không thể nào giấu con lâu hơn nữa, cô lấy một cái thúng bằng cói đem trát nhựa thông và hắc ín, đặt con vào thúng rồi đem thả giữa các bụi sậy dọc bờ sông Ninh. Chị của cậu bé đứng ở đằng xa để xem thử có gì xảy ra cho em mình không. Lúc ấy, công chúa Ai-cập xuống sông tắm trong khi các nữ tì đi dọc trên bờ sông. Công chúa thấy cái thúng giữa các bụi sậy nên sai nữ tì vớt thúng lên. Khi mở thúng ra, công chúa thấy cậu bé đang khóc, công chúa động lòng thương cậu bé, nói rằng: “Đây là con của người Hê-bơ-rơ.” Chị cậu bé nói với công chúa: “Công chúa muốn tôi kiếm một bà vú nuôi Hê-bơ-rơ để nuôi em bé cho công chúa không?” Công chúa đáp: “Được, đi đi.” Cô chị liền chạy đi gọi mẹ em bé đến. Công chúa bảo bà: “Bà đem em bé này về nuôi bú cho ta, ta sẽ trả công cho.” Bà nhận đứa bé và nuôi vú nó. Khi đứa bé đã khôn lớn, bà dẫn nó vào cung trao cho công chúa. Công chúa nhận cậu bé làm con, đặt tên là Môi-se vì nói rằng: “Ta đã cứu vớt nó ra khỏi nước.” Môi-se Trốn Qua Ma-đi-an Môi-se đã trưởng thành. Một ngày kia, ông đến thăm anh chị em của mình và thấy họ làm việc cực nhọc. Ông cũng thấy một người Ai-cập đánh đập một người Hê-bơ-rơ là anh chị em của mình. Ngó quanh quất không thấy ai, Môi-se liền giết người Ai-cập và đem vùi dưới cát. Qua hôm sau, ông lại ra và thấy hai người Hê-bơ-rơ đang đánh lộn. Môi-se hỏi người có lỗi rằng: “Sao lại đánh anh em mình?” Người ấy nói: “Ai đặt anh làm người cai trị và xét xử chúng tôi? Anh định giết tôi như đã giết người Ai-cập sao?” Môi-se sợ hãi, nghĩ thầm rằng: “Việc ta làm chắc đã bại lộ rồi.” Khi việc đến tai Pha-ra-ôn, vua tìm bắt Môi-se để xử tử, nhưng ông đã tẩu thoát lẩn tránh Pha-ra-ôn qua xứ Ma-đi-an và đến ngồi bên một giếng nước. Một thầy tế lễ Ma-đi-an có bảy con gái. Các cô này đến giếng để múc nước đổ đầy các máng cho bầy gia súc của cha họ uống. Có mấy người chăn chiên đến đuổi họ, nhưng Môi-se đứng ra bênh vực các cô gái và cho bầy của họ uống. Khi họ về đến nhà, cha họ là Rê-tu-ên hỏi: “Sao hôm nay các con về sớm vậy?” Họ đáp: “Có một người Ai-cập giải cứu chúng con thoát khỏi tay bọn chăn chiên và còn múc nước cho chúng con và bầy gia súc uống.” Người cha hỏi tiếp: “Người ấy đâu? Sao các con bỏ đi vậy? Hãy mời người ấy ăn bữa cơm.”2:20 Nt: bánh Môi-se bằng lòng ở lại với Rê-u-ên và ông gả con gái là Sê-phô-ra cho Môi-se. Sê-phô-ra sinh một con trai. Môi-se đặt tên cho con là Ghẹt-sôn2:22 Ghẹt-sôn nghĩa là ngoại quốc vì nói rằng: “Tôi là kiều dân nơi đất ngoại quốc.” Trong khoảng thời gian khá dài đó, vua Ai-cập qua đời. Dân Y-sơ-ra-ên ta thán dưới ách nô lệ và tiếng khóc than của họ lên đến Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời nghe tiếng ta thán đó và nhớ lại giao ước Ngài đã lập với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Đức Chúa Trời đoái xem dân Y-sơ-ra-ên và lưu tâm đến họ. Môi-se Và Bụi Gai Cháy Môi-se chăn bầy chiên của Giê-trô, ông gia mình và là thầy tế lễ Ma-đi-an. Ông dẫn đàn chiên đến mé xa của sa mạc và đến gần Hô-rếp là núi của Đức Chúa Trời. Ở đây thiên sứ của CHÚA hiện ra với ông trong ngọn lửa giữa bụi gai đang cháy. Môi-se nhận thấy bụi gai cháy nhưng không tàn rụi. Vì vậy Môi-se tự nhủ: “Ta lại đó xem hiện tượng kỳ lạ này, tại sao bụi gai cháy mà không tàn.” CHÚA thấy Môi-se lại gần để xem, Đức Chúa Trời từ bụi gai gọi ông rằng: “Môi-se! Môi-se!” Môi-se đáp: “Dạ, con đây!” Chúa phán: “Đừng lại gần! Cởi dép ra vì chỗ con đứng là đất thánh.” Rồi Chúa phán tiếp: “Ta là Đức Chúa Trời của tổ phụ con, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác và Đức Chúa Trời của Gia-cốp.” Nghe vậy Môi-se che mặt lại vì sợ nhìn thấy Đức Chúa Trời. CHÚA phán: “Ta thật đã thấy hết nỗi khổ nhục của dân Ta tại xứ Ai-cập. Ta đã nghe tiếng ta thán của họ vì những tên cai nô và Ta lưu ý đến nỗi thống khổ của họ. Vì vậy Ta xuống để giải cứu họ ra khỏi tay người Ai-cập và đem họ vào xứ tốt đẹp rộng rãi, xứ tuôn tràn sữa và mật ong, là đất của các dân Ca-na-an, Hê-tít, A-mô-rít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít. Tiếng kêu của dân Y-sơ-ra-ên đã thấu đến Ta và Ta đã thấy cách dân Ai-cập áp bức họ. Vậy, con hãy đi. Ta sai con đến với Pha-ra-ôn để đem dân Ta ra khỏi Ai-cập.” Nhưng Môi-se thưa với Đức Chúa Trời: “Con là ai mà dám đến với Pha-ra-ôn để đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập?” Đức Chúa Trời phán: “Ta sẽ ở với con, và đây là dấu hiệu cho con biết chính Ta đã sai con: khi con đã đem dân Ta ra khỏi Ai-cập các con sẽ thờ phượng Đức Chúa Trời trên chính núi này.” Môi-se thưa với Đức Chúa Trời: “Giả thử con đến nói với dân Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta sai tôi đến với anh chị em và họ hỏi con: ‘Tên Ngài là chi?’ thì con phải trả lời thế nào?” Đức Chúa Trời đáp: “Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu. Đây là điều con phải nói với dân Y-sơ-ra-ên: ‘Đấng Tự Hữu Hằng Hữu sai tôi đến với anh chị em.’ ” Đức Chúa Trời cũng bảo Môi-se: “Con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ tiên chúng ta, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp, đã sai tôi đến với anh chị em.’ Đó là danh đời đời của Ta, danh này phải được ghi nhớ từ thế hệ này đến thế hệ khác. Con cũng hãy triệu tập các bô lão Y-sơ-ra-ên và nói với họ: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ chúng ta, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp đã hiện ra với tôi và phán rằng: Ta đã chăm nom các con và đã thấy rõ tình cảnh các con đang chịu đựng trong xứ Ai-cập. Ta đã hứa đem các con ra khỏi cảnh khốn cùng ở Ai-cập và đem các con vào đất của các dân Ca-na-an, Hê-tít, A-mô-rít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít, là đất tuôn tràn sữa và mật ong.’ Các bô lão Y-sơ-ra-ên sẽ nghe theo con, rồi con và những người đó sẽ yết kiến vua Ai-cập và nói với vua: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ đã hiện ra với chúng tôi. Xin cho chúng tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để dâng tế lễ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi.’ Nhưng Ta biết vua Ai-cập sẽ không để cho các con đi nếu Ta chưa dùng tay quyền năng bắt buộc vua. Như vậy Ta sẽ đưa tay Ta đánh dân Ai-cập với các phép lạ Ta sẽ làm giữa vòng họ, rồi đến cuối cùng họ sẽ để các con ra đi. Ta cũng sẽ khiến dân Ai-cập có thiện cảm với các con, khi rời xứ đó các con sẽ không ra đi tay không. Phụ nữ Y-sơ-ra-ên sẽ hỏi xin hàng xóm láng giềng và phụ nữ sống trong nhà họ những món nữ trang bằng bạc bằng vàng và quần áo để mặc cho con trai con gái mình. Như vậy các con sẽ lột trần dân Ai-cập.” Các Dấu Kỳ Phép Lạ Chúa Ban Cho Môi-se Nhưng Môi-se thưa Lại: “Nếu họ không tin, cũng không chịu nghe con mà lại nói rằng: ‘CHÚA đâu có hiện ra với ông’ thì sao?” CHÚA hỏi Môi-se: “Con đang cầm cái gì trong tay?” Môi-se thưa: “Một cây gậy.” CHÚA bảo: “Con hãy ném cây gậy xuống đất.” Môi-se ném cây gậy xuống đất và gậy biến thành con rắn. Môi-se chạy trốn rắn. Nhưng CHÚA bảo ông: “Con đưa tay ra nắm lấy đuôi rắn đi.” Môi-se đưa tay nắm con rắn và rắn lại thành cây gậy trong tay Môi-se. CHÚA phán: “Phép lạ này để cho họ biết rằng CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ họ, Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời của Y-sác, Đức Chúa Trời của Gia-cốp, đã hiện ra với con.” CHÚA bảo: “Con hãy đặt tay vào bụng.” Môi-se đặt tay vào bụng, khi rút tay ra ông thấy tay bị phung trắng như tuyết. Chúa lại bảo: “Bây giờ con đặt tay vào bụng trở lại.” Môi-se đặt tay vào bụng và khi ông rút tay ra, tay đã lành lặn như những chỗ khác. Sau đó CHÚA phán: “Nếu họ không tin con hay không chú ý đến phép lạ thứ nhất, họ có thể tin phép lạ thừ nhì. Nhưng nếu họ không tin hai dấu lạ ấy hay không nghe con, con hãy lấy nước dưới sông Ninh và đổ ra trên đất khô. Nước con lấy dưới sông sẽ trở thành máu trên mặt đất.” Môi-se thưa với CHÚA: “Thưa CHÚA, con đâu có tài hùng biện, trong quá khứ đã vậy mà từ khi CHÚA phán với con cũng chẳng hơn gì, vì miệng lưỡi con chậm chạp ngập ngừng.” CHÚA hỏi ông: “Ai tạo ra miệng? Ai làm điếc làm câm? Ai ban thị giác và ai làm đui mù? có phải Ta, CHÚA không? Con cứ đi đi, Ta sẽ giúp đỡ miệng lưỡi con và chỉ dạy cho con điều phải nói.” Nhưng Môi-se vẫn chối từ: “Thưa CHÚA, xin CHÚA sai người khác làm việc đó.” Cơn giận của CHÚA phừng lên nghịch cùng Môi-se và Ngài hỏi: “Còn A-rôn người Lê-vi anh con, thì sao? Ta biết anh con nói giỏi. A-rôn đang đến đây gặp con và sẽ vui mừng lắm khi thấy mặt con. Con sẽ nói với anh con và đặt lời con trong miệng người ấy. Chính Ta sẽ giúp đỡ hai anh em con ăn nói và sẽ dạy các con điều phải làm. A-rôn sẽ thay con nói chuyện với dân chúng và con sẽ như miệng lưỡi của A-rôn và như chúa của người ấy vậy. Con cầm gậy trong tay để có thể dùng gậy làm các phép lạ.” Môi-se Trở Lại Ai-cập Môi-se trở về gặp Giê-trô ông gia mình và thưa rằng: “Xin cha cho con trở về với dân tộc con tại Ai-cập để xem họ có còn sống không.” Giê-trô đáp: “Con hãy lên đường bình an.” CHÚA đã phán dạy Môi-se trong xứ Ma-đi-an rằng: “Con cứ trở lại xứ Ai-cập vì những người tìm giết con đã chết hết rồi.” Môi-se đỡ vợ con lên lưng lừa và lên đường trở về Ai-cập, trong tay có cầm cây gậy của Đức Chúa Trời. CHÚA phán dặn Môi-se: “Khi trở về Ai-cập, con sẽ làm trước Pha-ra-ôn các dấu kỳ phép lạ với quyền năng Ta ban cho. Nhưng Ta sẽ làm cứng lòng vua Ai-cập để người ấy không cho phép dân chúng ra đi.” Khi ấy con hãy nói với Pha-ra-ôn: CHÚA phán: “Y-sơ-ra-ên là con trưởng nam Ta, và Ta bảo nhà ngươi: ‘Hãy để con Ta đi, để nó có thể thờ phượng Ta, nhưng nhà ngươi từ chối không để con Ta ra đi, như vậy Ta sẽ giết con trưởng nam của ngươi.’ ” Dọc đường, CHÚA gặp Môi-se trong một quán trọ và suýt giết ông. Nhưng Sê-phô-ra lấy con dao đá, cắt dương bì của con mình ném đụng chân Môi-se và nói: “Anh chính là chàng rể dính máu của tôi.” Nhờ vậy CHÚA để cho ông yên. (Khi nói “Chàng rể dính máu” Sê-phô-ra đề cập đến lễ cắt bì). CHÚA phán dạy A-rôn: “Con đi vào sa mạc để gặp Môi-se.” Như vậy ông gặp Môi-se tại núi của Đức Chúa Trời và hôn em mình. Môi-se thuật lại cho A-rôn tất cả những điều CHÚA bảo ông nói và cũng kể lại các dấu kỳ phép lạ Chúa ra lệnh cho ông thi hành. Môi-se và A-rôn triệu tập các bô lão Y-sơ-ra-ên, rồi A-rôn thuật lại cho họ mọi điều CHÚA đã phán với Môi-se. Ông cũng làm các phép lạ trước mặt dân chúng, và những người ấy tin lời ông. Khi nghe rằng CHÚA thăm viếng họ và thấu rõ nỗi đau khổ của họ, họ liền cúi đầu thờ phượng. Làm Gạch Không Rơm Sau đó Môi-se và A-rôn đến yết kiến Pha-ra-ôn và thưa: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán rằng: ‘Hãy để dân Ta đi, để họ có thể thờ phượng Ta trong sa mạc.’ ” Pha-ra-ôn hỏi: “CHÚA là ai mà ta phải vâng lời và để cho Y-sơ-ra-ên ra đi? Ta chẳng biết CHÚA là ai và cũng chẳng cho dân Y-sơ-ra-ên đi đâu.” Môi-se và A-rôn thưa: “Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ đã viếng thăm chúng tôi. Bây giờ xin bệ hạ cho chúng tôi đi ba ngày đường vào sa mạc để dâng tế lễ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi, nếu không Ngài sẽ dùng dịch hạch và gươm dao hình phạt chúng tôi.” Tuy nhiên Pha-ra-ôn trả lời: “Môi-se và A-rôn! Tại sao hai ông làm cho họ dừng công việc như vậy? Về làm việc đi!” Vua nói tiếp: “Dân số trong xứ đã lên rất nhiều mà mấy ông lại xui cho họ bỏ bê công việc.” Ngay hôm ấy, Pha-ra-ôn ban lệnh này cho các cai nô và các đốc công: “Đừng cấp rơm cho dân làm gạch như trước nữa; để chúng tự đi kiếm rơm lấy. Nhưng vẫn bắt chúng phải làm đủ số lượng gạch như trước chớ không được giảm bớt sản lượng. Phải bắt chúng làm việc thật nặng nề để chúng đừng để ý đến những lời dối trá.” Các cai nô và đốc công đi ra nói với dân rằng: “Đây là lệnh của Pha-ra-ôn: ‘Ta sẽ không cấp rơm như trước nữa. Mỗi người phải tự đi kiếm rơm ở đâu thì đi, nhưng không được giảm bớt sản lượng.’ ” Dân chúng phân tán đi ra khắp Ai-cập để kiếm rạ thay cho rơm. Các cai nô cứ đốc thúc: “Mỗi ngày phải làm cho xong phần việc, như khi được cấp rơm vậy.” Những trưởng toán người Y-sơ-ra-ên do các cai nô chỉ định bị họ đánh đập và hạch sách: “Sao hôm qua và hôm nay các anh không sản xuất đúng mức ấn định như trước?” Các trưởng toán người Y-sơ-ra-ên đến kêu van với Pha-ra-ôn: “Sao bệ hạ đối xử với các tôi tớ của bệ hạ như vậy? Chúng tôi không được cấp rơm nhưng vẫn cứ nhận được lệnh ‘Làm gạch đi!’ Tôi tớ của bệ hạ bị đánh đập, nhưng lỗi là lỗi của dân của bệ hạ.” Pha-ra-ôn đáp: “Lười biếng! Các anh là bọn lười biếng! Vì vậy mà các anh cứ đòi ‘Xin cho chúng tôi đi dâng tế lễ cho CHÚA.’ Trở về làm việc đi! Chẳng ai cấp rơm cho đâu, nhưng mức sản xuất gạch vẫn giữ nguyên như cũ!” Các trưởng toán Y-sơ-ra-ên rất bối rối khi nghe câu “Chẳng ai cấp rơm cho đâu, nhưng mức sản xuất gạch vẫn giữ nguyên như cũ”. Khi lui ra khỏi cung vua, họ gặp Môi-se và A-rôn đang đứng chờ họ, nên nói rằng: “Xin CHÚA xem xét và xử đoán hai ông! Hai ông đã làm chúng tôi thành một vật hôi hám trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần, hai ông đã đưa gươm cho họ giết chúng tôi!” Môi-se trở về với CHÚA và thưa: “Lạy CHÚA! Sao CHÚA lại mang họa đến cho dân này? CHÚA sai con đến với họ là vì mục đích ấy sao? Từ lúc con đến với Pha-ra-ôn để nhân danh CHÚA mà nói thì vua càng ngược đãi dân này, nhưng CHÚA lại chẳng giải cứu họ!” Lúc ấy, CHÚA phán với Môi-se: “Bây giờ con sẽ thấy việc Ta làm cho Pha-ra-ôn: Vì tay quyền năng của Ta, vua ấy sẽ để cho dân ra đi; vì tay quyền năng của Ta vua ấy sẽ trục xuất dân ra khỏi xứ.” Đức Chúa Trời phán tiếp với Môi-se: “Ta là CHÚA. Ta đã hiện ra với Áp-ra-ham, Y-sác, và Gia-cốp với danh ‘Đức Chúa Trời Toàn Năng’6:3 El Shaddai nhưng Ta không hề tỏ cho họ danh ‘CHÚA’.6:3 Yahweh: Đấng Tự Hữu Hằng Hữu Ta cũng đã lập giao ước với họ để ban cho họ xứ Ca-na-an là xứ họ đã kiều ngụ như người ngoại quốc. Ta đã nghe tiếng ta thán của dân Y-sơ-ra-ên là dân bị người Ai-cập bắt làm nô lệ và Ta nhớ lại giao ước của Ta. Vậy, con hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Ta là CHÚA, Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi ách của người Ai-cập. Ta sẽ phóng thích các ngươi khỏi vòng nô lệ, Ta sẽ cứu chuộc các ngươi bằng cánh tay dang ra và đoán phạt người Ai-cập với các việc quyền năng. Ta sẽ nhận các người làm dân Ta và Ta làm Đức Chúa Trời các ngươi. Khi đó các ngươi sẽ biết Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, Đấng đem các ngươi ra khỏi ách nô lệ của người Ai-cập. Ta sẽ đem các ngươi vào xứ Ta đã thề hứa với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Ta sẽ cho các ngươi xứ ấy làm sản nghiệp. Ta là CHÚA.’ ” Môi-se thuật lại những lời này cho dân Y-sơ-ra-ên nhưng họ không chịu nghe ông, vì họ nản lòng và vì ách nô lệ quá nặng nề. CHÚA lại phán bảo Môi-se: “Con đến nói với Pha-ra-ôn hãy để cho dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ.” Nhưng Môi-se thưa với CHÚA: “Nếu dân Y-sơ-ra-ên đã không nghe con thì Pha-ra-ôn lại nghe con là người nói ngập ngừng hay sao?” CHÚA lại phán với Môi-se và A-rôn về dân Y-sơ-ra-ên và về Pha-ra-ôn, vua Ai-cập. Ngài truyền lệnh cho họ đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập. Gia Phả Của Môi-se Và A-rôn Sau đây là danh sách các trưởng tộc của họ: Các con trai của Ru-bên, trưởng nam của Y-sơ-ra-ên, là Hê-nóc, Pha-lu, Hết-rôn và Cạt-mi. Đó là các tộc của Ru-bên. Các con trai của Si-mê-ôn là Giê-mu-ên, Gia-min, Ô-hát, Gia-kin, Xô-ha và Sau-lơ (có mẹ là người Ca-na-an). Đó là các tộc của Si-mê-ôn. Đây là tên các con trai Lê-vi, theo gia phả: Ghẹt-sôn, Kê-hát và Mê-ra-ri. Lê-vi thọ một trăm ba mươi bảy tuổi. Các con trai của Ghẹt-sôn, tùy theo tộc, là Líp-ni và Si-mê-i. Các con trai của Kê-hát là Am-ram, Dít-sê-ha, Hếp-rôn và U-xi-ên. Kê-hát thọ một trăm ba mươi ba tuổi. Mê-ra-ri có hai con trai là Mách-li và Mu-si. Am-ram cưới Giô-kê-bết là cô mình, sinh A-rôn và Môi-se. Am-ram thọ một trăm ba mươi bảy tuổi. Đít-sê-ba có ba con trai: Cô-rê, Nê-phết và Xiếc-ri. U-xi-ên cũng có ba con trai: Mi-sa-ên, En-sa-phan và Sít-ri. A-rôn cưới Ê-li-sê-ba, con gái A-mi-na-đáp, em Na-ha-sôn; các con trai họ là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma. Các con trai của Cô-rê là Át-si, Ên-ca-na và A-bi-a-sáp. Ê-lê-a-sa, con A-rôn, cưới con gái Phu-ti-ên; một trong những con trai của họ tên là Phi-nê-a. Đó là các trưởng tộc Lê-vi và gia đình họ. Đây là A-rôn và Môi-se, hai người đã nhận lệnh CHÚA đem toàn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Chính họ đã đi yết kiến Pha-ra-ôn vua Ai-cập để xin cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. A-rôn Làm Phát Ngôn Viên Cho Môi-se CHÚA cũng đã bảo Môi-se: “Ta là CHÚA. Hãy đi gặp Pha-ra-ôn, truyền lại cho vua ấy mọi lời Ta đã bảo!” Vào lúc ấy, Môi-se có thưa: “Con ăn nói vụng về, làm sao thuyết phục Pha-ra-ôn được?” CHÚA bảo Môi-se: “Ta cho con làm chúa của Pha-ra-ôn, còn A-rôn làm phát ngôn viên7:1 Nt: tiên tri cho con. Con thuật cho A-rôn mọi lời Ta bảo, A-rôn sẽ nói lại cho Pha-ra-ôn, để vua này cho dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Nhưng Ta sẽ khiến cho Pha-ra-ôn trở nên ương ngạnh, không cho dân Ta đi, nhân đó Ta càng thực hiện nhiều phép lạ hơn trong nước Ai-cập. Tuy nhiên, Pha-ra-ôn vẫn tiếp tục ngoan cố, chẳng xiêu lòng. Ta sẽ trừng trị Ai-cập nặng nề và đem dân Ta ra. Lúc ấy, người Ai-cập mới ý thức được rằng Ta chính là CHÚA.” Môi-se và A-rôn làm đúng theo lời CHÚA bảo họ. Lúc yết kiến Pha-ra-ôn, Môi-se đã được tám mươi tuổi, còn A-rôn tám mươi ba. CHÚA lại bảo Môi-se và A-rôn: “Khi nào Pha-ra-ôn đòi hỏi các con làm phép lạ để chứng tỏ các con được Đức Chúa Trời sai đến, A-rôn sẽ theo lời Môi-se quăng gậy xuống đất, gậy sẽ hóa ra một con rắn.” Vậy hai ông đi yết kiến Pha-ra-ôn, làm những điều CHÚA bảo họ. A-rôn quăng gậy xuống đất trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần. Gậy liền biến ra một con rắn. Pha-ra-ôn ra lệnh triệu tập các thầy pháp, các nhà ảo thuật Ai-cập. Họ đến, dùng pháp thuật, cũng làm được điều A-rôn đã làm. Gậy họ cũng biến thành rắn. Nhưng rắn của A-rôn nuốt rắn của họ đi. Pha-ra-ôn lòng vẫn không lay chuyển, không nghe lời hai ông, đúng như CHÚA đã nói trước với Môi-se. Tai Vạ Thứ Nhất: Máu CHÚA nhắc lại cho Môi-se: “Pha-ra-ôn ngoan cố, sẽ tiếp tục từ khước không cho dân Ta đi. Nhưng sáng mai, con cứ đi ra bờ sông gặp vua. Đừng quên cầm theo cây gậy đã biến thành rắn. Tại đó, con sẽ nói với Pha-ra-ôn: CHÚA, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ có sai tôi tâu với bệ hạ để cho dân Y-sơ-ra-ên đi thờ phượng Ngài trong sa mạc, nhưng vua đã từ chối. Bây giờ, CHÚA bảo: ‘Ngươi sẽ biết chính Ta là CHÚA, vì Ta đã sai Môi-se lấy gậy đập nước sông, nước sẽ hóa ra máu. Cá sẽ chết, sông sẽ thối, người Ai-cập sẽ kinh tởm khi uống nước dưới sông!’ ” Rồi CHÚA dặn Môi-se: “Con bảo A-rôn cầm gậy đưa về hướng các sông, suối, hồ, tất cả các nguồn nước của Ai-cập kể cả nước đã chứa vào vại đất, vào bình đá, tất cả sẽ biến thành máu.” Môi-se và A-rôn tuân hành lệnh CHÚA. Trước mặt Pha-ra-ôn và quần thần. A-rôn đưa cao cây gậy đập xuống nước sông Ninh, nước sông biến thành máu. Cá chết, nước thối, người Ai-cập không uống nước sông được nữa. Khắp Ai-cập, đâu đâu cũng thấy máu. Các thầy pháp Ai-cập dùng pháp thuật, cũng biến nước thành máu, cho nên Pha-ra-ôn vẫn ương ngạnh không nghe lời Môi-se và A-rôn, đúng như CHÚA đã nói. Vua quay về cung, lòng dửng dưng. Người Ai-cập phải đào giếng dọc bờ sông lấy nước uống, vì không uống được nước sông. Một tuần lễ trôi qua. Tai Vạ Thứ Nhì: Ếch Nhái CHÚA lại bảo Môi-se: “Con vào cung gặp Pha-ra-ôn, thưa với vua như sau: CHÚA bảo để cho dân Ta đi thờ phượng Ngài. Nếu không, Ngài sẽ sai ếch nhái đến, tràn khắp bờ cõi Ai-cập. Sông ngòi sẽ đầy lúc nhúc ếch nhái. Chúng sẽ nhảy vào cung, vào tận phòng ngủ của vua, đầy cả giường. Trong nước Ai-cập, nhà nào cũng sẽ đầy ếch nhái; ếch nhái trong lò, trong bếp, trong cả thùng nhồi bột; ếch nhái sẽ bò lên người của mọi công dân Ai-cập, bò lên cả mình vua.” Rồi CHÚA dặn Môi-se: “Bảo A-rôn đưa gậy hướng về các sông, suối, hồ, để ếch nhái từ các nơi đó tràn lên khắp Ai-cập.” A-rôn vâng lời và ếch nhái đầy tràn khắp nơi trong nước. Các thầy pháp dùng pháp thuật, cũng làm cho ếch nhái bò lên. Pha-ra-ôn liền cho đòi Môi-se và A-rôn đến, nói: “Hãy cầu xin CHÚA, để Ngài cho ếch nhái lánh xa chúng ta, rồi ta sẽ để cho dân Hê-bơ-rơ đi thờ phượng CHÚA!” Môi-se tâu: “Xin bệ hạ vui lòng cho biết bệ hạ muốn lúc nào ếch nhái rời khỏi Ai-cập, để tôi cầu Đức Chúa Trời cho đúng lúc ấy ếch nhái chết đi, chỉ còn lại ở dưới sông mà thôi.” Pha-ra-ôn đáp: “Ngày mai.” “Thưa vâng!” Môi-se nói: “Như vậy để bệ hạ biết rằng chẳng có ai như CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi. Trừ dưới sông ra, ếch nhái ở những nơi khác đều sẽ chết hết.” Rời cung vua, Môi-se liền cầu xin CHÚA về vụ này. CHÚA thực hiện lời Môi-se xin. Ếch nhái chết la liệt từ trong nhà đến tận ngoài đồng. Người ta dồn xác chúng lại thành từng đống lớn, mùi hôi thối xông lên khắp nơi. Còn Pha-ra-ôn, khi thấy mình đã thoát nạn này, liền trở lòng, chai lì, không chịu cho dân Y-sơ-ra-ên đi, đúng như CHÚA đã báo trước. Tai Vạ Thứ Ba: Muỗi CHÚA lại dạy Môi-se: “Bảo A-rôn lấy gậy đập đất bay lên, bụi bay lên, bụi sẽ biến thành muỗi dầy đặc trong nước Ai-cập.” Hai ông vâng lời Chúa, muỗi tràn lan khắp Ai-cập, đậu đầy dẫy trên người Ai-cập và bu đầy mình súc vật của họ. Các thầy pháp thử dùng pháp thuật hóa bụi ra muỗi, nhưng không làm được. Họ tâu với Pha-ra-ôn: “Đây là ngón tay của Đức Chúa Trời!” Nhưng Pha-ra-ôn ngoan cố, không nghe Môi-se và A-rôn, như lời CHÚA đã dạy. Tai Vạ Thứ Tư: Ruồi Nhặng Sau đó, CHÚA bảo Môi-se: “Sáng mai con dậy sớm, đi ra bờ sông gặp Pha-ra-ôn, thưa với vua rằng: CHÚA bảo vua tha cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, để họ thờ phượng Ngài. Nếu không, Ngài sẽ sai ruồi nhặng đến. Nhà nào cũng đầy ruồi. Ruồi sẽ bu khắp người vua, quần thần và người dân Ai-cập. Nhưng đặc biệt đất Gô-sen sẽ không có ruồi, vì là nơi dân Y-sơ-ra-ên ở. Chúa phân biệt dân Ngài với dân của vua. Vua sẽ biết rằng Ta là CHÚA, Ta đang ở giữa lãnh thổ. Ngày mai, việc này sẽ xảy ra.” CHÚA thực hiện lời Ngài. Vô số ruồi nhặng đến thành từng đàn, tàn hại đất Ai-cập, bay vào nhà người Ai-cập, từ vua chí dân. Pha-ra-ôn liền cho đòi Môi-se và A-rôn đến. Vua nói: “Đem người Hê-bơ-rơ đi dâng tế lễ cho Đức Chúa Trời của họ đi! Nhưng không được ra khỏi Ai-cập.” Môi-se đáp: “Không được. Chúng tôi dâng cho Đức Chúa Trời các lễ vật người Ai-cập ghê tởm. Nếu chúng tôi dâng trước mặt họ, họ sẽ giết chúng tôi sao? Chúng tôi phải đi sâu vào sa mạc chừng ba ngày đường và dâng lễ cho CHÚA tại đó, như Ngài đã bảo chúng tôi.” Pha-ra-ôn Hứa Rồi Nuốt Lời Pha-ra-ôn nhượng bộ: “Thôi được, ta sẽ cho đi vào sa mạc, nhưng không được đi xa hơn nữa. Cũng nhớ cầu nguyện cho ta với!” Môi-se hứa: “Tôi sẽ xin CHÚA cho ruồi nhặng rời Ai-cập. Nhưng xin vua đừng đánh lừa chúng tôi một lần nữa!” Rời cung vua, Môi-se xin CHÚA cho ruồi nhặng rút đi hết. CHÚA nhậm lời ông, làm cho ruồi đi hết, không còn lại một con. Nhưng lòng của Pha-ra-ôn lại trở nên chai lì, và không cho dân đi. Tai Vạ Thứ Năm: Súc Vật Bị Dịch CHÚA lại bảo Môi-se: “Con đi gặp Pha-ra-ôn, nói với vua ấy: CHÚA, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ bảo vua phải để cho dân đi thờ phượng Ngài. Nếu không, CHÚA sẽ làm cho súc vật bị bệnh dịch. Ngựa, lừa, lạc đà cùng các loài gia súc khác đều phải chết. Nhưng nạn dịch này chỉ giết hại súc vật của người Ai-cập mà thôi, không một con nào của người Y-sơ-ra-ên bị chết cả. Ngày mai, việc này sẽ xảy ra.” Đúng như lời CHÚA, vừa sáng hôm sau, súc vật của người Ai-cập chết la liệt, nhưng súc vật của người Y-sơ-ra-ên không việc gì cả. Pha-ra-ôn sai người đi quan sát, xem thử có phải súc vật của người Y-sơ-ra-ên đều an toàn cả không? Đến khi biết rõ điều ấy là đúng. Pha-ra-ôn vẫn cứ cố chấp, không để cho người Y-sơ-ra-ên đi. Tai Vạ Thứ Sáu: Ung Nhọt Bấy giờ, CHÚA bảo Môi-se và A-rôn: “Hãy bốc tro trong lòng bàn tay, rồi trước mặt Pha-ra-ôn, Môi-se sẽ tung tro lên trời. Tro sẽ là bụi phủ khắp nước Ai-cập, gây nên mụn nhọt lỡ lói đầy mình cả người lẫn thú vật.” Môi-se và A-rôn vâng lời, làm đúng như CHÚA bảo họ. Ung nhọt nổi lên khắp thân thể của người Ai-cập và trên cả thú vật nữa. Các thầy pháp cũng bị lở lói, không còn đứng trước mặt Môi-se được nữa. Nhưng CHÚA khiến lòng Pha-ra-ôn chai đá, không chịu nghe lời Môi-se và A-rôn, như CHÚA đã báo trước. Tai Vạ Thứ Bảy: Mưa Đá Sau đó, CHÚA bảo Môi-se: “Sáng mai con hãy dậy sớm đi gặp Pha-ra-ôn, hãy nói với vua: CHÚA, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ bảo vua để cho dân Y-sơ-ra-ên đi để họ thờ phượng Ngài! Ngài nói: Lần này Ta sẽ giáng tai họa hiểm nghèo khiến cho ngươi, quần thần và mọi người dân Ai-cập đều phải biết rằng, trên khắp thế giới, không có thần nào khác như Ta. Ta có thể dùng tai họa tiêu diệt ngươi và dân ngươi khỏi mặt đất, nhưng Ta để cho ngươi sống vì muốn cho ngươi thấy quyền năng của Ta và danh Ta sẽ được truyền rao khắp thế giới. Nếu ngươi còn dám lên mặt ngăn cản việc ra đi của dân Ta thì ngày mai, đúng vào ngày giờ này, Ta sẽ giáng một trận mưa đá rất lớn, trong lịch sử Ai-cập chưa hề có trận mưa đá nào lớn như vậy. Bây giờ, ngươi nên cho người dắt súc vật ở ngoài đồng về, vì mưa đá sẽ rơi, giết hại cả người lẫn súc vật còn ở ngoài đồng.” Quần thần Pha-ra-ôn nghe những lời này, có người lo sợ, vội sai gọi đầy tớ đem súc vật về, nhưng cũng có người dửng dưng, không đếm xỉa gì đến lời CHÚA, cứ để đầy tớ và súc vật ở ngoài đồng. CHÚA bảo Môi-se: “Hãy đưa tay lên trời, mưa đá sẽ rơi xuống khắp nước Ai-cập, trên người, thú vật và cây cỏ.” Môi-se, tay cầm gậy, đưa lên trời. CHÚA làm cho sấm động vang trời, chớp nhoáng sáng rực và mưa đá trút xuống dữ dội. Thật là một cảnh khủng khiếp chưa hề thấy trong lịch sử Ai-cập. Cả nước Ai-cập bị tàn phá. Người, súc vật, cây cỏ, mùa màng còn lại ngoài đồng đều bị mưa đá hủy hoại, chỉ trừ ra Gô-sen, đất cư trú của dân Y-sơ-ra-ên, là không bị mưa đá hôm ấy. Pha-ra-ôn Lại Cứng Lòng Pha-ra-ôn cho mời Môi-se và A-rôn vào, nói: “Bây giờ, ta đã biết lỗi mình. CHÚA đúng hoàn toàn, còn ta và dân ta đều là sai trái cả. Xin cầu CHÚA cho ta, để Ngài chấm dứt sấm sét và mưa đá, rồi ta sẽ cho dân Y-sơ-ra-ên đi lập tức.” Môi-se đáp: “Ra khỏi thành, tôi sẽ đưa tay lên hướng về CHÚA, sấm sét sẽ lặn, mưa đá sẽ tan. Làm thế để bệ hạ ý thức được rằng CHÚA nắm quyền khắp hoàn vũ. Tuy nhiên tôi biết bệ hạ và quần thần vẫn chưa thật tâm kính sợ CHÚA.” Lúc ấy đúng vào mùa lúa mạch và cây gai trổ hoa, nên lúa mạch và cây gai đều bị mưa đá vùi dập. Còn lúa mì và tiểu mạch không bị hại vì chưa mọc lên. Như thế Môi-se rời Pha-ra-ôn, ra ngoài thành, đưa tay lên hướng về CHÚA. Sấm sét và mưa đá ngừng lại, mưa cũng không đổ xuống nữa. Vừa thấy thế, Pha-ra-ôn và quần thần lại ương ngạnh, họ lại phạm tội một lần nữa. Vậy, Pha-ra-ôn không để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, đúng như lời CHÚA đã bảo trước với Môi-se. Tai Vạ Thứ Tám: Cào Cào Sau đó, CHÚA phán bảo Môi-se: “Con hãy đến gặp Pha-ra-ôn. Ta đã làm cứng lòng của vua và của quần thần để Ta làm thêm giữa vòng họ nhiều dấu lạ nữa và để con có thể kể lại cho con cháu cách Ta đối xử nghiêm khắc với người Ai-cập và thuật lại cho chúng những dấu kỳ phép lạ Ta đã làm, để các con biết Ta là CHÚA.” Vậy Môi-se và A-rôn đến yết kiến Pha-ra-ôn và thưa rằng: “Đây là lời CHÚA, Đức Chúa Trời của người Hê-bơ-rơ phán: Đến bao giờ người mới chịu hạ mình trước mặt Ta? Hãy để cho dân Ta đi để chúng thờ phượng Ta. Nếu ngươi khước từ không để chúng đi, ngày mai Ta sẽ đem cào cào đến trên đất nước ngươi. Cào cào sẽ che phủ mặt đất đến nỗi không còn thấy đất nữa. Chúng sẽ ăn nuốt hết những gì còn sót lại sau cơn mưa đá, kể cả cây cối ngoài đồng. Chúng sẽ vào cả trong cung điện ngươi, vào nhà quần thần và nhà dân Ai-cập. Đây là điều cha ông và tổ phụ các ngươi chưa hề thấy, kể từ ngày họ định cư trong xứ này.” Nói xong, Môi-se quay lại và ra đi. Quần thần tâu với Pha-ra-ôn: “Bao giờ người này mới thôi gài bẫy chúng ta bằng cách yêu sách cho dân Y-sơ-ra-ên đi, để chúng thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng nó. Bệ hạ không nhận thấy Ai-cập đang suy vong sao?” Môi-se và A-rôn lại được triệu đến gặp Pha-ra-ôn. Vua nói: “Hãy đi thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi đi. Nhưng ai sẽ ra đi?” Môi-se đáp: “Chúng tôi đi hết, cả già lẫn trẻ, cả con trai lẫn con gái, cả bầy bò lẫn bầy cừu, vì chúng tôi phải tổ chức một đại lễ cho CHÚA.” Pha-ra-ôn nói: “Cầu CHÚA ở với các ngươi! Nhưng ta đâu để các ngươi đi hết, kể cả đàn bà con nít! Đây chính là một quỷ kế của các ngươi. Không được đâu! Chỉ có đàn ông được đi thờ phượng CHÚA, vì đó là điều các ngươi đã yêu cầu.” Rồi họ đuổi Môi-se và A-rôn ra. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con đưa tay ra trên xứ Ai-cập để cào cào tràn ngập xứ và cắn nuốt tất cả cây cỏ ngoài đồng là những thứ còn sống sót sau trận mưa đá.” Vậy, Môi-se đưa gậy trên xứ Ai-cập và CHÚA sai gió đông thổi ngang qua xứ suốt ngày và suốt đêm đó. Qua sáng hôm sau, gió đem cào cào đến; vô số cào cào tràn ngập Ai-cập không chừa một địa điểm nào cả. Từ trước chưa hề có nạn cào cào kinh khủng như thế và về sau cũng không thấy nữa. Cào cào đầy dẫy trên mặt đất làm cả xứ đen kịt. Chúng cắn nuốt tất cả những gì trận mưa đá để lại, kể cả cây cỏ ngoài đồng và hoa quả trên cành. Khắp xứ Ai-cập không còn ngọn cỏ hay lá cây xanh nào cả. Pha-ra-ôn vội vàng cho triệu Môi-se và A-rôn đến, nói rằng: “Ta đã phạm tội với CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi và cũng có lỗi với hai ngươi. Bây giờ xin tha tội cho ta một lần nữa và cầu nguyện với CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, và xin Ngài đem tai vạ chết người này đi khỏi ta.” Môi-se rời khỏi Pha-ra-ôn, cầu nguyện với CHÚA. CHÚA đổi gió thành một trận gió tây rất mạnh, đùa hết cào cào xuống Hồng Hải. Khắp xứ Ai-cập không còn một con cào cào nào cả. Nhưng CHÚA làm cho Pha-ra-ôn cứng lòng, và vua không chịu để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Tai Vạ Thứ Chín: Tối Tăm Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se: “Con đưa tay lên trời để đem sự tối tăm đến bao trùm xứ Ai-cập, tối tăm dầy đặc như có thể sờ được.” Vậy, Môi-se đưa tay lên trời và sự tối tăm dày đặc bao phủ xứ Ai-cập trong ba ngày. Suốt ba ngày đó, không ai có thể thấy gì hay có thể rời khỏi chỗ mình. Tuy nhiên, tại chỗ dân Y-sơ-ra-ên cư ngụ vẫn có ánh sáng. Pha-ra-ôn cho triệu Môi-se và A-rôn đến, nói rằng: “Đi thờ phượng CHÚA đi! Đàn bà và con nít cũng cho đi hết, nhưng phải để bầy bò và bầy cừu lại.” Nhưng Môi-se thưa rằng: “Bệ hạ phải để cho chúng tôi dâng lễ vật và tế lễ thiêu cho CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi. Đàn gia súc phải đi theo chúng tôi, dù một cái móng cũng không thể để lại. Chúng tôi phải dùng một số súc vật để thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi, nhưng chỉ khi nào đến chỗ đó chúng tôi mới biết phải dùng thứ gì để thờ phượng CHÚA.” Nhưng CHÚA làm cứng lòng Pha-ra-ôn và vua không bằng lòng để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Pha-ra-ôn nói với Môi-se: “Đi cho khuất mắt ta! Đừng trở lại cho ta thấy mặt nữa! Ngày nào các ngươi thấy mặt ta lần nữa, ngày đó các ngươi phải chết!” Môi-se đáp: “Bệ hạ nói đúng. Tôi sẽ không bao giờ thấy mặt bệ hạ nữa.” Tai Vạ Thứ Mười: Con Trưởng Nam Lúc ấy, CHÚA phán với Môi-se: “Ta sẽ giáng một tai vạ nữa trên Pha-ra-ôn và xứ Ai-cập. Sau đó, vua ấy sẽ để các con ra đi; không những cho đi mà thôi mà còn đuổi đi cho hết. Con hãy dặn dân chúng, cả đàn ông lẫn đàn bà, phải hỏi xin người láng giềng những đồ bằng bạc và vàng.” CHÚA làm cho dân Y-sơ-ra-ên được cảm tình của người Ai-cập, và chính Môi-se được mọi người thán phục; từ Pha-ra-ôn đến quần thần và dân chúng. Vậy Môi-se nói: Đây là lời CHÚA phán: “Khoảng nửa đêm, Ta sẽ đi qua khắp xứ Ai-cập. Tất cả các con trưởng nam của người Ai-cập sẽ chết hết, từ thái tử con Pha-ra-ôn đang ngồi trên ngôi cho đến con trưởng nam của người nữ tì đang xay cối, thậm chí đến con đầu lòng của gia súc cũng đều chết hết. Sẽ có tiếng khóc than trong toàn xứ Ai-cập. Từ trước đến giờ chưa hề có và trong tương lai cũng sẽ không có cảnh đó. Nhưng giữa vòng dân Y-sơ-ra-ên sẽ không có cả tiếng chó sủa. Như vậy các ngươi sẽ biết được rằng CHÚA phân biệt dân Y-sơ-ra-ên với dân Ai-cập. Tất cả quần thần của Pha-ra-ôn sẽ đến với tôi, cúi xuống trước mặt tôi và nói: ‘Xin các ông và toàn dân Y-sơ-ra-ên ra đi’; lúc ấy tôi mới ra đi.” Nói xong, Môi-se lìa Pha-ra-ôn trong cơn nóng giận. CHÚA đã báo trước cho Môi-se rằng: “Pha-ra-ôn sẽ khước từ không chịu nghe con, để Ta làm thêm nhiều dấu kỳ phép lạ tại Ai-cập.” Môi-se và A-rôn thực hiện nhiều phép lạ trước mặt Pha-ra-ôn, nhưng vì CHÚA đã làm cho vua cứng lòng nên vua không chịu để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi. Lễ Vượt Qua Khi còn ở Ai-cập, CHÚA có phán với Môi-se và A-rôn: “Tháng này sẽ được kể là tháng giêng, tức là tháng thứ nhất trong năm. Con hãy ra lệnh cho toàn dân Y-sơ-ra-ên: vào mồng mười tháng này mỗi người đàn ông phải bắt một con cừu con cho gia đình mình, mỗi gia đình một con cừu con. Nếu gia đình nào có ít người không thể ăn hết một cừu con thì phải chia sẻ với người láng giềng gần nhất, tính thế nào cho đủ số người ăn. Các con cũng ước tính số lượng thịt cần thiết cho mỗi người ăn. Con vật các con chọn trong bầy cừu hay bầy dê phải là con đực, đúng một tuổi, không tì vết. Các con vật này phải được chăm sóc cho đến ngày mười bốn tháng này, là ngày toàn dân Y-sơ-ra-ên đem chúng ra giết vào lúc chiều tối. Rồi họ sẽ lấy huyết cừu đem bôi trên thanh ngang và trên hai thanh dọc của khung cửa vào nhà, là nơi sẽ ăn thịt cừu. Nội đêm đó họ sẽ ăn thịt cừu đã quay trên lửa với rau đắng và bánh không men. Đừng ăn thịt sống hay thịt luộc, nhưng phải đem quay cả con cừu trên lửa, với cái đầu, chân và bộ lòng. Đừng để thừa lại cho đến sáng mai; nếu còn thừa chút gì, hãy đem đốt hết. Đây là cách các con ăn thịt đó; phải nai nịt gọn gàng, chân mang dép và tay cầm gậy. Các con phải ăn vội vàng; đó là lúc CHÚA Vượt Qua. Trong đêm ấy, Ta sẽ vượt qua khắp xứ Ai-cập và giết hết các con đầu lòng của loài người cũng như của các loài súc vật, và Ta cũng sẽ đoán phạt các thần của Ai-cập. Ta là CHÚA. Huyết bôi trên cửa là dấu hiệu của nhà các con ở và khi Ta thấy huyết, Ta sẽ vượt qua, và bệnh dịch sát hại sẽ không đụng đến các con trong khi ta hành hại người Ai-cập. Đây là ngày các con phải kỷ niệm; từ thế hệ này đến thế hệ khác, các con phải tổ chức lễ này cho CHÚA. Đây là mạng lệnh đời đời. Trong bảy ngày, các con phải ăn bánh không men. Vào ngày thứ nhất, các con phải đem hết men ra khỏi nhà, vì ai ăn bất cứ món gì có men từ ngày thứ nhất cho đến ngày thứ bảy sẽ bị khai trừ ra khỏi Y-sơ-ra-ên. Vào ngày thứ nhất các con phải tổ chức một cuộc hội họp thánh; đến ngày thứ bảy cũng tổ chức một cuộc họp thánh nữa. Trong những ngày này, các con không được làm việc gì cả, ngoại trừ việc chuẩn bị thức ăn là việc duy nhất có thể làm. Các con hãy tổ chức Lễ Bánh Không Men, vì vào chính ngày này Ta đem các đạo quân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập. Việc tổ chức lễ này là một mạng lệnh đời đời cho các thế hệ trong tương lai. Từ tối ngày mười bốn cho đến tối ngày hai mươi mốt tháng giêng, các con phải ăn bánh không men. Trong bảy ngày đó, không ai được giữ men trong nhà. Bất cứ người nào ăn món gì có men sẽ bị khai trừ khỏi hội chúng Y-sơ-ra-ên, dù là ngoại kiều hay người sinh trong xứ. Đừng ăn món gì có men. Bất cứ sinh sống ở đâu, các con cũng phải ăn bánh không men.” Môi-se triệu tập các bô lão Y-sơ-ra-ên lại và nói với họ: “Các ông phải lập tức đi chọn cừu con cho gia đình mình và giết nó để làm lễ Vượt Qua. Hãy lấy một bó bài hương thảo, nhúng vào chậu huyết và đem bôi trên thanh ngang và hai thanh dọc của khung cửa. Không ai được ra khỏi nhà khi trời chưa sáng. Khi CHÚA đi qua xứ để hình phạt người Ai-cập, Ngài sẽ vượt qua nhà nào khi thấy khung cửa nhà ấy có bôi huyết trên thanh ngang và hai thanh dọc. Ngài sẽ không cho phép đấng Hủy Diệt vào nhà để giết hại. Phải vâng giữ các chỉ thị này như một mạng lệnh đời đời cho các ông và cho hậu tự các ông. Cũng phải giữ Lễ này khi đã vào xứ CHÚA hứa sẽ ban cho. Khi con cháu các ông hỏi: ‘Lễ này có ý nghĩa gì?’ thì nói với chúng: ‘đây là lễ Vượt Qua cho CHÚA, để kỷ niệm ngày Ngài đã vượt qua nhà của dân Y-sơ-ra-ên khi còn ở trong xứ Ai-cập. Ngài vượt qua nhà của chúng ta trong khi giết hại người Ai-cập.’ ” Nghe xong, dân chúng cúi xuống và thờ phượng. Rồi dân Y-sơ-ra-ên làm đúng theo mọi điều CHÚA đã phán dạy Môi-se và A-rôn. Lúc nửa đêm, CHÚA giết hại tất cả các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, từ thái tử con Pha-ra-ôn đang ngồi trên ngai cho đến con đầu lòng của tù nhân đang bị giam trong ngục, cả đến con đầu lòng của gia súc. Pha-ra-ôn, quần thần và mọi người dân Ai-cập thức dậy lúc nửa đêm, có tiếng than khóc vang lên khắp nước vì không nhà nào mà không có người chết. Xuất Hành Ngay đêm ấy, Pha-ra-ôn cho triệu Môi-se và A-rôn đến và nói: “Hai ông và toàn dân Y-sơ-ra-ên hãy lìa khỏi chúng tôi! Các ông hãy đi thờ phượng CHÚA như điều hai ông đã xin. Cũng dẫn theo cả bò cừu như các ông đã nói, rồi đi hết đi! Và cũng cầu phước cho chúng tôi với!” Dân Ai-cập hối thúc người Y-sơ-ra-ên phải cấp tốc ra khỏi nước họ, vì nói rằng: “Nếu các ngươi không đi, chúng tôi sẽ chết hết!” Dân Y-sơ-ra-ên lấy áo bọc thùng nhồi bột, với bột mới nhồi nhưng chưa kịp pha men, rồi vác lên vai mà đi. Họ làm theo điều Môi-se đã dặn bảo và hỏi xin người Ai-cập các món bằng bạc và bằng vàng và cả quần áo nữa. CHÚA làm cho người Ai-cập có cảm tình với họ và cho họ những thứ họ hỏi xin; như vậy, người Ai-cập bị họ bóc lột. Dân Y-sơ-ra-ên ra đi từ Ram-se đến Su-cốt, tổng số người đi độ sáu trăm ngàn người. Đây là số đàn ông, chưa kể đàn bà con nít. Cũng có rất nhiều người ngoại tộc cùng đi, dẫn theo từng đàn gia súc rất lớn. Với bột đã nhồi ở Ai-cập, họ làm bánh không men. Bột này nhồi không pha men vì họ bị đuổi đi gấp, không kịp chuẩn bị lương thực đi đường. Thời gian dân Y-sơ-ra-ên cư ngụ trong xứ Ai-cập là bốn trăm ba mươi năm. Đúng vào ngày cuối cùng của thời gian bốn trăm ba mươi năm ấy, các đạo quân của CHÚA rời khỏi Ai-cập. CHÚA đã rút dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập vào đêm ấy, nên dân Y-sơ-ra-ên phải giữ đêm ấy làm kỷ niệm, từ thế hệ này đến thế hệ khác. Các Quy Tắc Về Lễ Vượt Qua CHÚA phán bảo Môi-se và A-rôn: “Đây là các quy tắc về lễ vượt qua: người ngoại quốc không được ăn lễ ấy. Nô lệ các con đã mua chỉ được phép ăn lễ sau khi chịu cắt bì, nhưng những kiều dân tạm trú và người làm mướn không được phép ăn. Thịt phải ăn trong nhà và không được đem ra khỏi nhà, cũng không được làm gẫy một cái xương nào cả. Toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên phải dự lễ vượt qua. Những ngoại kiều sống chung với người Y-sơ-ra-ên nếu muốn dự lễ vượt qua thì đàn ông phải chịu cắt bì; sau đó họ được phép ăn lễ như người sinh ra trong xứ. Đàn ông không chịu cắt bì không được phép ăn lễ. Luật này áp dụng cho cả người sinh trong xứ lẫn người kiều ngụ.” Tất cả dân Y-sơ-ra-ên đều làm theo điều CHÚA đã phán dạy Môi-se và A-rôn. Trong chính ngày đó, CHÚA dẫn dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập, tùy theo các đạo quân của họ. Hiến Dâng Con Đầu Lòng CHÚA phán dạy Môi-se: “Dân Y-sơ-ra-ên phải hiến dâng cho Ta tất cả các con trưởng nam. Con đầu lòng của Y-sơ-ra-ên đều thuộc về Ta, kể cả con trưởng nam của loài người và con đầu lòng của súc vật.” Sau đó Môi-se nói với dân chúng: “Hãy kỷ niệm ngày này là ngày anh chị em ra khỏi Ai-cập, ra khỏi đất nô lệ vì CHÚA đã đem anh chị em ra bằng cánh tay quyền năng của Ngài. Đừng ăn món gì có men. Anh chị em ra đi hôm nay, vào tháng giêng.13:4 Tháng Abib (tháng lúa trổ bông) Khi CHÚA đã đem anh chị em vào xứ của người Ca-na-an, Hê-tít, A-mô-rít, và Giê-bu-sít, xứ Ngài đã hứa ban cho tổ phụ anh chị em, là xứ tràn trề sữa và mật ong, thì anh chị em phải giữ lễ này vào tháng này. Trong bảy ngày phải ăn bánh không men và đến ngày thứ bảy phải tổ chức lễ thờ phượng CHÚA. Trong suốt bảy ngày này phải ăn bánh không men, giữa vòng anh chị em sẽ không có món gì có men, và không được thấy men trong toàn lãnh thổ. Vào ngày đó, anh chị em nói cho con cái: ‘Cha làm như vậy vì điều CHÚA đã làm cho cha, khi Ngài đem cha ra khỏi xứ Ai-cập.’ Việc giữ lễ này đối với anh chị em sẽ như một dấu trên tay, một kỷ niệm trên trán, để nhắc nhở luật pháp của CHÚA nơi môi miệng anh chị em, vì CHÚA đã dùng cánh tay quyền năng đem anh chị em ra khỏi Ai-cập. Anh chị em phải giữ mạng lệnh này, vào đúng thời điểm ấn định, từ năm này qua năm khác. Khi CHÚA đã đem anh chị em vào xứ của người Ca-na-an và ban xứ ấy cho anh chị em, như Ngài đã thề hứa với anh chị em và với tổ phụ thì anh chị em phải dâng hiến cho CHÚA tất cả các con trưởng nam. Tất cả các con đực đầu lòng của bầy súc vật cũng thuộc về CHÚA. Phải dùng cừu con để chuộc con lừa đầu lòng, nhưng nếu không chuộc thì phải bẻ cổ lừa. Phải chuộc lại tất cả con trưởng nam của anh chị em. Trong tương lai, khi con cái hỏi anh chị em: ‘Ý nghĩa của việc này là gì?’ thì hãy trả lời: ‘Với cánh tay quyền năng, CHÚA đã đem chúng ta ra khỏi Ai-cập là đất nô lệ. Khi Pha-ra-ôn ngoan cố không chịu để chúng ta đi, CHÚA đã sát hại tất cả các con đầu lòng trong xứ Ai-cập, cả người lẫn súc vật. Đó là lý do tại sao cha hiến dâng cho CHÚA tất cả các con đầu lòng của súc vật và chuộc lại con trưởng nam của cha.’ Điều ấy sẽ là dấu ghi trên tay và kỷ niệm trên trán để anh chị em nhớ rằng CHÚA đã dùng tay quyền năng đem chúng ta ra khỏi Ai-cập.” Đi Băng Qua Biển Khi Pha-ra-ôn để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, Đức Chúa Trời không dẫn họ theo con đường đi ngang qua xứ Phi-li-tin, là đường ngắn nhất, vì Đức Chúa Trời phán rằng: “Nếu gặp chiến tranh, chúng có thể đổi ý mà quay trở về Ai-cập.” Vì vậy Đức Chúa Trời dẫn dân chúng đi vòng con đường sa mạc, về hướng Biển Đỏ. Khi ra khỏi Ai-cập, dân Y-sơ-ra-ên đã được vũ trang để ra khỏi xứ Ai-cập. Môi-se đem theo mình hài cốt của Giô-sép vì Giô-sép có bảo các con của Y-sơ-ra-ên thề, và nói rằng: “Chắc chắn Đức Chúa Trời sẽ đoái thăm các anh, và lúc đó các anh phải đem hài cốt của tôi theo khi đi ra khỏi xứ này.” Sau khi rời Su-cốt, dân Y-sơ-ra-ên đóng trại tại Ê-lam, giáp ranh sa mạc. Ban ngày, CHÚA đi trước họ trong một trụ mây để dẫn đường và ban đêm trong một trụ lửa để chiếu sáng, như vậy họ có thể đi cả ngày lẫn đêm. Trụ mây vào ban ngày và trụ lửa vào ban đêm không bao giờ lìa khỏi họ. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con bảo dân Y-sơ-ra-ên quay lại và đóng trại gần Phi-ha Bi-rốt, giữa Mít-đôn và biển, chúng sẽ đóng trại dọc biển, đối diện với Ba-anh Sê-phôn. Pha-ra-ôn sẽ nghĩ rằng: ‘Dân Y-sơ-ra-ên đi lẩn quẩn vì bị sa mạc làm lạc hướng.’ Ta sẽ làm cho Pha-ra-ôn cứng lòng để vua ấy đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên. Nhưng Ta sẽ rạng danh vì Pha-ra-ôn và quân đội của vua ấy, và dân Ai-cập sẽ biết Ta là CHÚA.” Dân Y-sơ-ra-ên làm đúng như vậy. Khi vua Ai-cập được báo cáo rằng dân Y-sơ-ra-ên đã tẩu thoát, vua và quần thần đổi ý và nói: “Chúng ta đã làm gì vậy? Chúng ta để cho dân Y-sơ-ra-ên ra đi, không còn phục vụ chúng ta nữa sao?” Vậy, vua ra lệnh chuẩn bị xe chiến mã và dẫn quân đội theo. Vua đem theo sáu trăm xe chiến mã tốt nhất, cùng với một số xe chiến mã khác, do các sĩ quan chỉ huy. CHÚA làm cứng lòng Pha-ra-ôn, vua nước Ai-cập và vua đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên trong khi dân này can đảm ra đi. Người Ai-cập, với tất cả ngựa, xe chiến mã, lính kỵ và bộ binh, đều đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên và bắt kịp họ khi họ đóng trại dọc biển gần Phi-ha Bi-rốt, đối diện Ba-anh Sê-phôn. Vừa khi thấy Pha-ra-ôn và đạo quân Ai-cập đuổi theo kịp, dân Y-sơ-ra-ên khiếp sợ và kêu la với CHÚA. Họ nói với Môi-se: “Có phải vì Ai-cập không đủ chỗ chôn nên ông mới dẫn chúng tôi vào sa mạc để chết hay sao? Ông làm gì cho chúng tôi khi đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập? Khi còn ở Ai-cập chúng tôi đã nói với ông cứ bỏ mặc chúng tôi, để chúng tôi cứ phục vụ người Ai-cập. Vì thà phục vụ người Ai-cập còn hơn chết trong sa mạc!” Nhưng Môi-se đáp: “Đừng sợ! Cứ đứng vững rồi anh chị em sẽ thấy sự giải cứu của CHÚA ngày hôm nay. Những người Ai-cập anh chị em thấy hôm nay sẽ không bao giờ còn thấy nữa. CHÚA sẽ chiến đấu cho anh chị em, chỉ cần anh chị em bình an.” CHÚA hỏi Môi-se: “Tại sao các con kêu van với Ta? Con bảo dân Y-sơ-ra-ên cứ tiến bước. Con đưa cây gậy lên, giang tay con ra trên biển để rẽ nước cho dân Y-sơ-ra-ên đi qua biển như đi trên đất khô. Ta sẽ làm cứng lòng người Ai-cập để họ đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên và Ta sẽ rạng danh vì Pha-ra-ôn, quân đội, xe chiến mã và kỵ binh của vua ấy. Người Ai-cập sẽ nhận biết Ta là CHÚA khi Pha-ra-ôn, xe chiến mã và kỵ binh của người làm Ta rạng danh.” Thiên sứ của Đức Chúa Trời, cho đến lúc ấy vẫn đi trước đạo quân Y-sơ-ra-ên, liền quay lại đi phía sau. Trụ mây cũng từ đằng trước dời ra đằng sau và án ngữ giữa đạo quân Ai-cập và đạo quân Y-sơ-ra-ên. Suốt đêm ấy, trụ mây che một phía làm cho bị tối tăm nhưng lại chiếu sáng cho phía bên kia, vì vậy cả đêm hai đạo quân không thể đến gần nhau. Sau đó Môi-se đưa tay trên biển và CHÚA cho một trận gió đông thổi mạnh dồn nước lại và làm cho biển trở thành đất khô. Nước rẽ ra, và dân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua biển như đi trên đất khô, bên phải và bên trái đều có bức tường bằng nước. Dân Ai-cập đuổi theo họ, tất cả ngựa, xe chiến mã và lính kỵ của Pha-ra-ôn đều theo họ xuống biển. Vào canh cuối đêm ấy, CHÚA từ trụ lửa và trụ mây nhìn xuống đạo quân Ai-cập và làm cho họ rối loạn. Ngài làm cho xe chiến mã họ sút bánh không chạy được, nên người Ai-cập bảo nhau: “Chúng ta hãy mau lánh xa dân Y-sơ-ra-ên, vì CHÚA thay họ chiến đấu chống Ai-cập!” Lúc đó CHÚA phán bảo Môi-se: “Con đưa tay lên biển để đem nước lại phủ lấp người Ai-cập, xe chiến mã và lính kỵ của họ.” Môi-se đưa tay lên biển vào lúc trời bình minh và biển trở lại như trước. Người Ai-cập tìm cách tẩu thoát nhưng bị CHÚA lùa xuống biển hết. Nước tràn lại, phủ lấp các xe chiến mã và lính kỵ, toàn thể đạo quân của Pha-ra-ôn đã đuổi theo dân Y-sơ-ra-ên đều bị lùa xuống biển, không một người sống sót. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên đi băng qua biển như đi trên đất khô, với bức tường nước bên phải và bên trái. Hôm đó CHÚA giải cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay người Ai-cập và họ thấy xác người Ai-cập khắp trên bờ biển. Khi được chứng kiến quyền năng phi thường CHÚA đã bầy tỏ để trừng trị người Ai-cập, dân Y-sơ-ra-ên đem lòng kính sợ CHÚA và tin tưởng nơi Ngài và nơi Môi-se là tôi tớ Ngài. Bài Ca Của Môi-se Và Mi-ri-am Môi-se và dân Y-sơ-ra-ên hát bài ca này để ca ngợi CHÚA: “Tôi sẽ ca ngợi CHÚA Vì Ngài vô cùng cao cả. Ngựa lẫn người cưỡi ngựa. Đều bị Chúa lùa xuống biển. CHÚA là sức mạnh và là bài ca của tôi, Ngài là Đấng Cứu Rỗi tôi. CHÚA là Đức Chúa Trời tôi, tôi ca ngợi Ngài, Là Đức Chúa Trời của tổ phụ tôi, Đấng tôi tôn cao. CHÚA là lính chiến Danh Ngài là CHÚA. Xe chiến mã và quân lính của Pha-ra-ôn, Đều bị Ngài lùa xuống biển, Tướng lĩnh ưu tú nhất của Pha-ra-ôn, Đều chết chìm dưới Biển Đỏ. Nước sâu che phủ họ. Như viên đá, họ chìm xuống đáy biển. Lạy CHÚA, cánh tay phải Chúa đầy quyền uy, Tay phải CHÚA dẹp tan quân thù. Với uy quyền vô cùng vĩ đại, Chúa ném kẻ chống đối xuống đất, Với lửa giận phừng phừng, Chúa thiêu họ khác nào rơm rác. Hơi thở từ môi Chúa dồn nước lên cao, Nước đang chảy dừng lại như bức tường, Nước sâu dựng thành vách giữa lòng đại dương. Địch quân công bố: ‘Ta đuổi theo, ta sẽ bắt kịp, Ta sẽ chia nhau chiến lợi phẩm Tha hồ mà chiếm đoạt! Ta vung gươm tiêu diệt quân thù.’ Nhưng Chúa thổi gió ra, Biển liền phủ lấp họ, Họ chìm nghỉm như chì Tận đáy biển sâu. Trong vòng các thần ai giống như CHÚA, Ai giống Chúa, Uy nghiêm thánh khiết, Đấng vinh quang đáng kính sợ, Đấng làm bao phép lạ dấu kỳ? Chúa đưa tay phải ra, Đất liền nuốt họ. Với tình thương vô biên, Chúa dắt dẫn dân Chúa đã chuộc; Với sức mạnh toàn năng, Chúa dắt đưa họ vào nơi ngự thánh. Các nước sẽ nghe và run sợ, Cơn kinh hoàng bám chặt Phi-li-tin. Các lãnh tụ Ê-đôm đều khiếp đảm, Cấp chỉ huy Mô-áp run cầm cập, Dân Ca-na-an kinh hãi rụng rời; Tất cả đều khủng khiếp hoang mang. Lạy CHÚA! Tay quyền năng Chúa đưa ra, Làm chúng đứng sững như đá, Cho đến khi dân Chúa đã đi qua, Cho đến khi dân Chúa chuộc đã qua khỏi. Lạy CHÚA! Chúa đem dân Chúa về trồng Trên núi thánh là sản nghiệp Chúa chọn, Là nơi Chúa đặt nơi cư ngụ, Là Nơi Thánh chính tay Ngài thiết lập. CHÚA cầm quyển tể trị, Từ đời đời cho đến đời đời.” Trong khi chiến mã, xe chiến mã và kỵ binh của Pha-ra-ôn đều chìm dưới đáy biển vì CHÚA đem nước biển trở lại phủ lấp họ; còn dân Y-sơ-ra-ên đi ngang qua biển như đi trên đất khô. Nữ tiên tri Mi-ri-am, chị của A-rôn, và các phụ nữ đều cầm trống cơm nhảy múa. Mi-ri-am cất tiếng đáp: “Hãy hát lên ca ngợi CHÚA, Vì Ngài cao cả tuyệt vời. CHÚA ném xuống biển sâu, Bao nhiêu chiến mã cùng đoàn kỵ binh.” Nước Ở Ma-ra Và Ê-lim Sau đó Môi-se dẫn dân Y-sơ-ra-ên từ Biển Đỏ đi đến sa mạc Su-rơ. Suốt ba ngày đi trong sa mạc họ không tìm được nước uống. Khi đến Ma-ra, họ không thể uống nước ở đó được, vì nước đắng. (Đó là lý do tên của địa điểm đó là Ma-ra).15:23 Ma-ra nghĩa là đắng Do đó dân chúng than phiền với Môi-se: “Chúng tôi lấy gì uống đây?” Môi-se kêu cầu CHÚA và Chúa chỉ cho ông một khúc cây. Ông nắm lấy khúc cây, liệng xuống nước và nước hóa ngọt. Tại đó, CHÚA công bố đạo luật và sắc lệnh cho dân chúng và Ngài thử họ. Chúa phán dạy: “Nếu các ngươi cẩn thận nghe theo tiếng của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, và làm điều ngay lành trước mắt Ta, nếu các ngươi lưu tâm đến mạng lệnh và quy luật Ta, Ta sẽ không đem đến cho các ngươi các thứ bệnh tật Ta đã giáng trên người Ai-cập, vì Ta là CHÚA, Đấng chữa bệnh các ngươi.” Khi đến Ê-lim là nơi có mười hai suối nước và bảy mươi cây chà là, họ đóng trại bên cạnh các suối nước này. Bánh Ma-na Và Chim Cút Toàn dân Y-sơ-ra-ên đi từ Ê-lim đến sa mạc Sin (sa mạc này nằm giữa Ê-lim và Si-nai) vào ngày mười lăm tháng hai, tính từ ngày họ ra khỏi Ai-cập. Khi ở trong sa mạc toàn dân Y-sơ-ra-ên phiền trách Môi-se và A-rôn. Họ nói với hai ông rằng: “Thà chúng tôi chết vì bàn tay của CHÚA trong xứ Ai-cập khi ngồi quanh nồi thịt và muốn chi có nấy, còn hơn là để hai ông đem vào sa mạc để chết đói cả đám!” CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Ta sẽ cho bánh từ trời rơi xuống như mưa cho các ngươi. Mỗi ngày dân chúng sẽ đi lượm đủ bánh cho ngày đó. Ta sẽ dùng cách ấy thử chúng để xem chúng có vâng giữ các giáo huấn của Ta hay không. Vào ngày thứ sáu chúng sẽ thu nhặt gấp đôi số lượng chúng thu nhặt trong những ngày khác.” Vậy Môi-se và A-rôn nói với toàn dân Y-sơ-ra-ên: “Chiều nay, anh chị em sẽ nhận biết rằng chính CHÚA đã đem anh chị em ra khỏi Ai-cập. Chiều nay anh chị em sẽ trông thấy vinh quang của CHÚA vì Ngài đã nghe tiếng than phiền của anh chị em rồi. Chúng tôi là ai mà anh chị em trách móc chúng tôi?” Môi-se tiếp: “Anh chị em sẽ nhận biết CHÚA khi Ngài ban cho dư dật thịt vào buổi chiều và bánh vào buổi sáng, vì Ngài đã nghe tiếng anh chị em trách móc Ngài. Chúng tôi là ai? Không phải anh chị em trách móc chúng tôi đâu, nhưng chính anh chị em trách móc CHÚA đó.” Sau đó Môi-se nói với A-rôn: “Anh truyền cho dân chúng đến trước mặt CHÚA vì Ngài đã nghe tiếng than phiền của họ.” Đang khi A-rôn nói chuyện với toàn dân Y-sơ-ra-ên, họ ngó về hướng sa mạc và thấy vinh quang của CHÚA hiện ra trên đám mây. CHÚA phán với Môi-se: “Ta đã nghe tiếng than phiền của dân Y-sơ-ra-ên. Con nói với chúng: ‘đến chiều các ngươi sẽ ăn thịt và đến sáng mai sẽ có bánh ăn dư dật,’ rồi chúng nó sẽ nhận biết Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng nó.” Chiều đó, chim cút bay đến phủ cả trại quân và qua sáng mai có một lớp sương xung quanh trại quân. Lớp sương tan đi và để lại trên cát sa mạc những hạt nhỏ mịn như sương muối. Khi thấy các hạt nhỏ này, dân Y-sơ-ra-ên hỏi nhau: “Cái gì vậy?” vì họ không biết đó là vật gì. Môi-se đáp: “Đó là bánh CHÚA ban cho anh chị em ăn. Và đây là mạng lệnh của Ngài: ‘Mỗi người đi nhặt đủ cho nhu cầu của mình. Nhặt cho mỗi người một ô-me16:16 độ hai lít trong lều của mình.’ ” Người Y-sơ-ra-ên làm theo lời ấy, người nhặt nhiều kẻ nhặt ít. Nhưng khi đong, người nhặt nhiều cũng chẳng thừa, kẻ nhặt ít cũng không thiếu. Mỗi người thu lượm tùy theo nhu cầu của mình. Môi-se có căn dặn họ đừng để bánh thừa đến sáng mai. Tuy nhiên có một số người không để ý đến lời Môi-se và để bánh thừa đến sáng hôm sau, bánh hóa sâu và có mùi hôi hám. Vì vậy Môi-se giận họ. Cứ đến sáng, mỗi người đi thu nhặt đủ số cần dùng và khi mặt trời đã nóng, bánh tan đi hết. Vào ngày thứ sáu, họ thu nhặt gấp đôi, tức là mỗi người hai ô-me. Khi thấy vậy các người lãnh đạo trong hội chúng đến báo cáo với Môi-se. Nhưng Môi-se nói rằng: “Đây là điều CHÚA truyền dạy: ‘ngày mai là ngày nghỉ, là ngày Sa-bát thánh cho CHÚA. Hãy nấu nướng món gì các ngươi muốn nấu nướng, luộc món gì các ngươi muốn luộc, rồi để dành một phần cho ngày hôm sau.’ ” Họ làm theo lời Môi-se và để thức ăn đến sáng hôm sau; thức ăn không hôi hám cũng không hóa sâu. Khi ấy Môi-se nói với họ: “Anh chị em ăn các món đó hôm nay đi, vì hôm nay là ngày Sa-bát cho CHÚA. Hôm nay anh chị em sẽ không tìm thấy bánh trên mặt đất đâu. Anh chị em đi thu lượm trong sáu ngày nhưng qua ngày thứ bảy là ngày Sa-bát, sẽ không có bánh.” Tuy nhiên, một số người đi ra kiếm bánh vào ngày Sa-bát nhưng không tìm thấy gì cả. CHÚA phán hỏi Môi-se: “Các ngươi cứ từ chối không chịu vâng theo mạng lệnh và giáo huấn của Ta cho đến khi nào? Nên nhớ rằng CHÚA đã cho các ngươi ngày Sa-bát; vì đó mà vào ngày thứ sáu Ngài cho các ngươi đủ bánh cho hai ngày. Tất cả mọi người phải nghỉ ngơi trong ngày thứ bảy; không ai được phép đi ra ngoài.” Như vậy dân chúng nghỉ ngơi vào ngày thứ bảy. Dân Y-sơ-ra-ên gọi bánh đó là ma-na,16:31 Ma-na có nghĩa là “vật gì vậy?” nó giống hạt ngò, có vị như bánh mật ong. Môi-se nói: “Đây là mạng lệnh CHÚA truyền dạy: ‘Lấy một ô-me ma-na và giữ lại cho các thế hệ tương lai, để chúng được thấy thứ bánh Ta ban cho các ngươi ăn trong sa mạc khi Ta đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập.’ ” Vậy Môi-se nói với A-rôn: “Anh lấy một cái bình, bỏ vào đấy một ô-me ma-na, rồi đem bình để trước mặt CHÚA để giữ lại cho các thế hệ tương lai.” Đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se, A-rôn đem ma-na đặt trước Rương Giao Ước để lưu truyền. Dân Y-sơ-ra-ên ăn ma-na trong bốn mươi năm, cho đến khi họ vào định cư, tức là họ ăn ma-na cho tới biên giới xứ Ca-na-an. Một ô-me bằng một phần mười ê-pha.16:36 Chừng hai lít Nước Từ Vầng Đá Toàn dân Y-sơ-ra-ên từ sa mạc Sin ra đi từng chặng theo lệnh của CHÚA. Họ đến cắm trại ở Rê-phi-đim, nhưng ở đó không có nước cho dân chúng uống. Họ cãi nhau với Môi-se và nói: “Ông cho chúng tôi nước uống!” Môi-se đáp: “Tại sao anh chị em cãi nhau với tôi? Tại sao anh chị em thử CHÚA?” Nhưng vì quá khát nên họ cứ trách móc Môi-se và nói: “Tại sao ông đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập để cho chúng tôi, con cái chúng tôi và bầy súc vật phải chết khát?” Môi-se kêu cầu CHÚA: “Con phải làm gì cho dân này? Thiếu chút nữa là họ ném đá con.” CHÚA đáp lời Môi-se: “Con hãy đi trước dân chúng, dẫn theo con một số bô lão Y-sơ-ra-ên và cầm trong tay cây gậy con đã dùng đập nước sông Ninh. Ta sẽ đứng đó, trước mặt con ở bên vầng đá Hô-rếp. Con sẽ đập vầng đá và nước sẽ tuôn tràn ra cho dân chúng uống.” Môi-se làm đúng theo điều Chúa phán dạy trước mắt các bô lão Y-sơ-ra-ên. Ông đặt tên chỗ đó là Ma-sa17:7 Ma-sa có nghĩa là thử và Mê-ri-ba17:7 Mê-ri-ba có nghĩa là cãi lộn vì dân Y-sơ-ra-ên có cãi lộn và vì họ thử CHÚA khi nói rằng: “CHÚA có ở giữa chúng ta không?” Đánh Bại Dân A-ma-léc Người A-ma-léc đến tấn công dân Y-sơ-ra-ên tại Rê-phi-đim. Môi-se bảo Giô-suê: “Hãy tuyển chọn người của chúng ta để ra chiến đấu chống lại dân A-ma-léc. Ngày mai tôi sẽ đứng trên ngọn đồi với cây gậy của Đức Chúa Trời trong tay.” Như vậy Giô-suê chiến đấu chống lại dân A-ma-léc theo lệnh Môi-se, còn Môi-se, A-rôn và Hu-rơ lên đứng trên đỉnh đồi. Trong khi Môi-se đưa tay lên thì dân Y-sơ-ra-ên thắng thế, nhưng khi nào ông hạ tay xuống thì dân A-ma-léc lại thắng thế. Khi tay Môi-se đã mỏi, A-rôn và Hu-rơ cùng đứng mỗi người một bên để đỡ tay Môi-se và giữ cho tay ông không chuyển động cho đến khi mặt trời lặn. Như vậy Giô-suê dùng gươm đánh bại đạo quân A-ma-léc. Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se: “Con chép lại việc này trong một cuốn sách để ghi nhớ, và cũng nói cho Giô-suê biết rằng Ta sẽ xóa sạch kỷ niệm của dân A-ma-léc khỏi dưới trời.” Môi-se thiết lập một bàn thờ, đặt tên là: “CHÚA, cờ chiến thắng của tôi.” Ông nói rằng: “Vì tay họ đã đưa lên nghịch với ngôi của CHÚA nên Ngài sẽ chống nghịch dân A-ma-léc từ đời này đến đời kia.” Giê-trô Viếng Thăm Môi-se Ông gia Môi-se là Giê-trô, thầy tế lễ Ma-đi-an, có nghe về mọi việc Đức Chúa Trời đã làm cho Môi-se và cho dân Y-sơ-ra-ên, cũng như về cách CHÚA đã đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi xứ Ai-cập. Trước đấy Môi-se có gởi vợ là Sê-phô-ra cho ông gia là Giê-trô, cùng hai con trai Môi-se đặt tên cho một người con là Ghẹt-sôn,18:3 Ghẹt-sôn nghĩa là “ngoại kiều” vì nói rằng: “Tôi đã thành một kiều dân ở ngoại quốc” và đặt tên cho người kia là Ê-li-ê-se18:4 Ê-li-ê-se nghĩa là “Đức Chúa Trời của tôi là Đấng giúp đỡ” vì nói: “Đức Chúa Trời của tổ phụ tôi là Đấng đã giúp đỡ tôi, Ngài giải cứu tôi khỏi lưỡi gươm của Pha-ra-ôn.” Giê-trô, ông gia Môi-se, cùng với vợ và hai con trai Môi-se, đến gặp ông khi ông đang cắm trại gần bên núi của Đức Chúa Trời. Giê-trô cho người đến báo cáo cho Môi-se rằng: “Ta là Giê-trô, ông gia của con, cùng với vợ và các con của con đã đến đây.” Môi-se ra tiếp đón ông gia mình, cúi đầu chào và hôn ông. Sau khi chào thăm nhau, hai người vào lều. Môi-se thuật lại cho ông gia nghe mọi việc CHÚA đã vì dân Y-sơ-ra-ên mà đã làm trên Pha-ra-ôn và trên dân Ai-cập; ông cũng kể lại những nỗi khó khăn dân Chúa đã gặp dọc đường và cách CHÚA giải cứu họ. Giê-trô rất hoan hỉ khi nghe tất cả những việc lành CHÚA đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên để giải cứu họ ra khỏi tay người Ai-cập. Ông nói: “Cảm tạ CHÚA là Đấng đã giải cứu con ra khỏi tay của người Ai-cập và của Pha-ra-ôn cũng như đã giải cứu dân Ngài khỏi tay người Ai-cập. Bây giờ cha biết CHÚA vĩ đại hơn tất cả các thần vì Ngài đã làm những việc này cho những người đối xử với dân Y-sơ-ra-ên cách kiêu căng.” Sau đó Giê-trô, ông gia Môi-se dâng tế lễ thiêu và các tế lễ khác cho Đức Chúa Trời, rồi A-rôn và các bô lão Y-sơ-ra-ên ăn bữa với ông gia Môi-se trước mặt Đức Chúa Trời. Qua hôm sau, Môi-se ra ngồi xét đoán dân chúng, và họ đứng xung quanh ông từ sáng đến chiều. Khi thấy mọi việc Môi-se làm cho dân chúng, Giê-trô hỏi: “Có phải điều đó là điều con làm cho dân chúng không? Tại sao chỉ một mình con ngồi xét đoán còn toàn dân đứng chung quanh con từ sáng đến chiều như vậy?” Môi-se đáp: “Họ đến với con để tìm biết ý muốn của Đức Chúa Trời. Khi có ai tranh tụng điều gì thì đem đến với con để con phân xử giữa đôi bên và cho họ biết mạng lệnh và luật pháp của Đức Chúa Trời.” Ông gia Môi-se nói: “Con làm như vây không tiện. Cả con lẫn những người đến với con cũng đều mệt nhoài. Công việc quá nặng nề cho con, một mình con gánh không xuể. Con sẽ kiệt quệ mà dân cũng mỏi mòn. Con nghe cha nói rồi cha sẽ cho con một vài lời khuyên; cầu xin CHÚA ở với con. Con phải là người đại diện của dân chúng trước mặt Đức Chúa Trời và trình cho Ngài biết các cuộc tranh tụng của họ. Con dạy cho họ các mạng lệnh và luật lệ và chỉ dẫn cho họ biết cách họ phải sống và bổn phận họ phải thi hành. Trong toàn dân con cũng phải lựa chọn những người có khả năng, kính sợ Đức Chúa Trời, đáng tin cậy và ghét lợi bất chánh, rồi bổ nhiệm họ vào cấp lãnh đạo, chỉ huy từng ngàn, trăm, năm mươi và mười người. Con dùng họ làm người xét xử thường xuyên để giải quyết những vụ đơn giản, còn vụ khó khăn thì đem trình cho con. Như vậy họ sẽ chia sẻ trách nhiệm với con và gánh nặng của con sẽ vơi đi rất nhiều. Nếu con làm như vậy, và nếu Đức Chúa Trời cho phép, con mới gánh vác nổi và dân chúng mới an lòng khi về nhà.” Môi-se nghe lời ông gia mình và làm theo mọi điều ông khuyên bảo. Môi-se chọn những người có khả năng trong dân chúng và đặt họ làm những người lãnh đạo, chỉ huy hàng ngàn, trăm, năm mươi và mười người. Những người này thường xuyên xét xử dân chúng và giải quyết những vụ đơn giản, còn vụ khó khăn thì đem trình Môi-se. Sau đó, Môi-se tiễn đưa ông gia mình là Giê-trô, khi ông lên đường về xứ mình. Đến Núi Si-nai Sau khi ra khỏi Ai-cập đúng ba tháng, dân Y-sơ-ra-ên đến sa mạc Si-nai và cắm trại đối ngang với núi. Họ đi từ Rê-phi-đim đến sa mạc Si-nai, rồi cắm trại đối ngang núi. Môi-se lên với Đức Chúa Trời khi CHÚA gọi và phán dạy ông rằng: “Đây là điều con sẽ thuật lại cho nhà Gia-cốp và nói lại cho dân Y-sơ-ra-ên: ‘Chính các ngươi đã thấy những việc Ta làm trong xứ Ai-cập và cách Ta đã đem các ngươi như bằng cánh chim ưng để đem các ngươi đến với Ta. Bây giờ nếu các ngươi vâng phục Ta hoàn toàn và giữ giao ước Ta thì trong tất cả các nước, các ngươi sẽ là cơ nghiệp quý giá của Ta. Mặc dù cả thế gian đều thuộc về Ta, riêng các ngươi sẽ là vương quốc thầy tế lễ và là dân tộc thánh cho Ta.’ Đó là những lời con phải nói lại cho dân Y-sơ-ra-ên.” Như vậy Môi se trở về, triệu tập các bô lão đến và thuật lại cho họ những lời CHÚA đã truyền cho ông. Toàn dân đồng thanh trả lời rằng: “Chúng tôi sẽ làm theo mọi điều CHÚA đã phán dạy.” Môi-se trình lại lời của họ với CHÚA. CHÚA phán với Môi-se: “Ta sẽ đến với con trong đám mây dày đặc và cho dân chúng được nghe Ta nói chuyện với con để chúng luôn tin tưởng con.” Môi-se cũng trình lên cho CHÚA những điều dân Y-sơ-ra-ên đã nói. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy đến với dân Y-sơ-ra-ên và bảo họ làm cho mình thánh sạch trong ngày hôm nay và ngày mai. Bảo họ giặt quần áo và phải sẵn sàng vào ngày thứ ba vì ngày đó CHÚA sẽ giáng lâm trên núi Si-nai trước mắt toàn dân. Con phải vạch ranh giới xung quanh núi cho dân chúng và bảo họ: ‘Phải cẩn thận đừng lên núi cũng đừng đụng đến chân núi. Ai đụng đến núi phải bị xử tử. Người đó sẽ bị ném đá hoặc bị bắn tên cho chết; không ai được đưa tay sờ đến người đó. Dù là người ta hay súc vật, hễ đụng đến núi thì phải chết. Chỉ khi nào có tiếng kèn thổi dài người ta mới được lên núi.’ ” Môi-se ở trên núi xuống, đến với dân chúng, bảo họ giữ mình thánh sạch và giặt quần áo. Sau đó ông nói với họ: “Anh chị em phải chuẩn bị cho ngày thứ ba, và phải kiêng đến gần đàn bà.” Vào buổi sáng ngày thứ ba có sấm sét chớp nhoáng, mây đen kịt bao phủ núi và có tiếng kèn thổi vang làm cho mọi người trong trại quân đều run sợ. Môi-se hướng dẫn dân chúng từ trại quân bước ra để ra mắt Đức Chúa Trời và họ dừng lại ở chân núi. Khói bao phủ núi Si-nai, vì CHÚA giáng lâm trong lửa. Khói từ núi bay lên như khói từ lò lửa hực và cả núi rung chuyển dữ dội. Tiếng kèn càng lúc càng vang động. Lúc đó Môi-se bắt đầu nói và có tiếng của Đức Chúa Trời đáp lời ông. CHÚA giáng lâm trên đỉnh núi Si-nai, gọi Môi-se lên núi. Ông liền vâng lời. CHÚA phán với Môi-se: “Con xuống cảnh cáo dân chúng bảo họ không được vượt ranh giới tìm xem CHÚA mà nhiều người phải thiệt mạng. Ngay cả các thầy tế lễ khi đến gần CHÚA cũng phải làm cho mình thánh sạch, nếu không, họ sẽ bị CHÚA tiêu diệt.” Môi-se trình với CHÚA: “Dân chúng không thể lên núi Si-nai vì chính Chúa có bảo con vạch ranh giới quanh núi và biệt núi riêng ra thánh.” CHÚA phán bảo Môi-se: “Con xuống đem A-rôn lên với con. Nhưng các thầy tế lễ và dân chúng không được vượt ranh giới lên đến Ta; ai bất tuân sẽ bị Ta tiêu diệt.” Như vậy Môi-se xuống núi đến với dân chúng và căn dặn họ. Mười Điều Răn Đức Chúa Trời công bố những lời này: “Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, Ta đã đem các ngươi ra khỏi Ai-cập, khỏi đất nô lệ. Ngoài Ta ra, các ngươi không được thờ các thần khác. Các ngươi không được làm cho mình tượng theo hình dạng của bất cứ vật gì ở trên trời cao, ở trên mặt đất hay ở dưới nước. Các ngươi không được sấp mình thờ phượng các tượng ấy; vì Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, Đức Chúa Trời kỵ tà. Ta hình phạt con cháu cho đến thế hệ thứ ba, thứ tư vì tội khước từ Ta của tổ tiên họ, nhưng bày tỏ tình thương đến ngàn đời cho ai yêu mến Ta và vâng giữ các điều răn Ta. Các ngươi không được dùng danh CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi cách thiếu tôn kính, vì CHÚA không coi người dùng danh Ngài cách thiếu tôn kính là người vô tội. Phải nhớ ngày Sa-bát và giữ làm ngày thánh. Các ngươi phải làm tất cả các công việc mình trong sáu ngày, nhưng ngày Sa-bát là ngày dành cho CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi. Trong ngày đó các ngươi, con trai con gái, tôi trai tớ gái, súc vật và cả đến khách ở trong nhà các ngươi đều không được làm việc gì cả. Vì trong sáu ngày CHÚA đã dựng nên trời, đất, biển và mọi vật trong đó, nhưng Ngài nghỉ vào ngày thứ bảy. Như vậy CHÚA chúc phước cho ngày thứ bảy và thánh hóa ngày ấy. Phải hiếu kính cha mẹ, để các ngươi có thể sống lâu trên đất mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi ban cho. Không được giết người. Không được tà dâm. Không được trộm cắp. Không được làm chứng dối nghịch người khác. Không được tham muốn nhà cửa của người khác. Không được tham muốn vợ, tôi trai, tớ gái, bò lừa hay bất cứ thứ gì của người khác.” Khi nghe thấy sấm chớp, tiếng kèn và núi bốc khói, dân chúng run rảy sợ sệt. Họ đứng tận đằng xa và nói với Môi-se rằng: “Xin chính ông nói với chúng tôi và chúng tôi sẽ nghe lời. Xin đừng để Đức Chúa Trời phán với chúng tôi, kẻo chúng tôi chết mất!” Môi-se nói với dân chúng: “Anh chị em đừng sợ. Đức Chúa Trời đến để thử anh chị em, để anh chị em có lòng kính sợ Đức Chúa Trời và không phạm tội với Ngài.” Trong khi Môi-se đến gần đám mây dầy đặc là nơi Đức Chúa Trời ngự thì dân chúng cứ đứng ở đằng xa. Hình Tượng Và Bàn Thờ Sau đó, CHÚA phán dạy Môi-se: “Con truyền lại cho dân Y-sơ-ra-ên lời này: ‘Chính các ngươi đã thấy tận mắt Ta từ trời phán cùng với các ngươi; vậy các ngươi không được làm và đặt bên cạnh Ta bất cứ thần tượng nào; đừng làm cho mình các thần bằng bạc hay các thần bằng vàng. Các ngươi phải làm một bàn thờ bằng đất cho Ta và dâng trên bàn thờ ấy tế lễ thiêu, tế lễ cầu an, cừu, dê và bò. Bất cứ nơi nào Ta làm cho danh Ta được tôn kính, Ta sẽ đến và ban phước cho các ngươi. Nếu các ngươi thiết lập cho Ta một bàn thờ bằng đá thì đừng dùng đá đẽo, vì các ngươi sẽ làm ô uế bàn thờ khi dùng dụng cụ để đẽo đá. Không được đi lên bàn thờ Ta bằng bậc thang để khỏi bộc lộ sự trần truồng của ngươi.’ ” Luật Về Nô Lệ Đây là những luật lệ con phải truyền cho dân Y-sơ-ra-ên: “Nếu các ngươi mua một người Hê-bơ-rơ làm nô lệ, người đó sẽ phục vụ trong sáu năm. Nhưng đến năm thứ bảy người đó sẽ được tự do, không cần phải trả tiền chuộc. Nếu đến nhà ngươi một mình, người ấy cũng ra đi một mình; nhưng nếu có vợ khi đến nhà ngươi, người ấy sẽ ra đi với vợ mình. Nếu chủ cưới vợ cho người nô lệ và họ có con cái, khi ra đi người nô lệ sẽ đi một mình còn vợ và con đều thuộc về người chủ. Nhưng nếu người nô lệ tuyên bố rằng: ‘Tôi yêu chủ, yêu vợ con và không muốn ra đi tự do’ thì người chủ phải đem người nô lệ này đến trước mặt các thẩm phán. Chủ sẽ dẫn người nô lệ đến cửa, hay trụ cửa, rồi dùng dùi xỏ tai người ấy và người ấy sẽ làm nô lệ cho chủ trọn đời. Nếu người có bán con gái mình làm nữ tỳ, đến năm thứ bảy nữ tỳ này sẽ không được trả tự do như các tôi tớ đàn ông. Nếu nữ tỳ này không còn vừa lòng chủ mặc dù đã được chủ chọn cho mình, chủ phải để cho người khác chuộc nữ tỳ này và không được phép bán cho người nước ngoài vì chủ đã thất tín với nàng. Nếu chủ đã chọn một nữ tỳ cho con trai mình, chủ phải cho người này các đặc quyền như là con gái mình. Nếu chủ đã cưới một nữ tỳ sau đó lại cưới vợ khác, chủ không được phép giảm thức ăn, quần áo và tình nghĩa vợ chồng với người vợ thứ nhất. Nếu chủ không cung cấp ba thứ này, người vợ thứ nhất có thể ra đi tự do mà không cần phải đóng tiền chuộc. Thương Tích Cá Nhân Ai đánh chết người, chắc chắn sẽ bị xử tử. Tuy nhiên nếu không có chủ mưu và tai nạn do Đức Chúa Trời cho phép xảy ra, người ấy phải chạy trốn đến chỗ Ta sẽ chỉ định. Nhưng nếu có ai chủ mưu và cố tình giết người, các ngươi phải dẫn tên sát nhân ra khỏi bàn thờ Ta và đem xử tử. Ai đánh cha mẹ mình, phải bị xử tử. Ai bắt cóc một người, hoặc đem bán đi hoặc giữ lại, phải bị xử tử. Ai rủa cha mẹ, phải bị xử tử. Nếu hai người cãi lộn rồi một người đánh người kia bằng đá hay bằng nắm tay làm cho bị thương phải nằm liệt giường nhưng không chết, người gây ra thương tích sẽ không bị buộc tội nếu người bị thương có thể đứng dậy chống gậy đi ra khỏi nhà. Tuy nhiên người gây thương tích phải bồi thường thiệt hại cho người bị thương suốt thời gian người ấy không làm việc được cho đến khi lành mạnh. Nếu một người chủ dùng cây đánh nô lệ nam hay nữ của mình làm người nô lệ chết ngay tại chỗ, người chủ phải bị trừng phạt, nhưng nếu một hai ngày sau người nô lệ này dậy được thì chủ khỏi bị trừng phạt, vì nô lệ là tài sản của chủ. Nếu hai người đang đánh nhau, đụng vào một phụ nữ đang có thai và làm cho phụ nữ này bị sinh thiếu tháng nhưng không bị thương tích trầm trọng thì người có lỗi phải bồi thường theo mức chồng của phụ nữ ấy đòi hỏi và được thẩm phán chấp thuận. Nhưng nếu gây thương tích trầm trọng thì mạng đền mạng, mắt đền mắt, răng đền răng, tay đền tay, chân đền chân, bỏng đền bỏng, thương tích đền thương tích, bầm giập đền bầm giập. Nếu người chủ đánh trúng con mắt của người nô lệ của mình, dù nam hay nữ, và làm cho mù thì người chủ phải bồi thường thiệt hại bằng cách để cho người nô lệ ra đi tự do. Nếu người chủ đánh rụng răng một người nô lệ, dù nam hay nữ, chủ phải để người nô lệ ra đi tự do để bồi thường răng bị rụng. Nếu một con bò húc chết một người đàn ông hay đàn bà, bò đó phải bị ném đá chết và không ai ăn thịt nó. Chủ bò sẽ không bị buộc phải chịu trách nhiệm. Tuy nhiên, nếu bò có tật hay húc và chủ bò đã được cảnh cáo nhưng không chịu nhốt bò lại để bò húc chết người, dù nam hay nữ, thì bò phải bị ném đá chết và chủ bò cũng bị xử tử. Tuy nhiên nếu thân nhân người chết cho phép chuộc mạng, chủ bò sẽ trả bất cứ giá nào thân nhân đòi hỏi. Luật này cũng áp dụng khi bò húc chết một thiếu niên nam hay nữ. Nếu bò húc chết một người nô lệ nam hay nữ, chủ bò phải trả ba mươi miếng bạc21:32 30 shê-ken, độ 300g bạc cho chủ người nô lệ còn bò phải bị ném đá cho chết. Nếu có người mở miệng hầm hay đào hầm mà không đậy lại và có bò hay lừa ngã xuống hầm, người chủ hầm phải bồi thường thiệt hại cho chủ bò và con bò chết sẽ thuộc về chủ hầm. Nếu bò của người này húc chết bò của người khác, hai người chủ sẽ đem bán con bò còn sống rồi chia tiền bán và chia con bò chết cho công bằng. Tuy nhiên, nếu chủ biết bò mình có tật hay húc mà không chịu nhốt bò lại, người chủ này phải bồi thường, bò đền bò, và được giữ con bò chết. Bảo Vệ Tài Sản Nếu một người bắt trộm bò hay cừu rồi đem giết hay đem bán đi, người ấy phải bồi thường: nếu là bò thì một đền năm; còn cừu thì một đền bốn. Nếu kẻ trộm bị bắt quả tang và bị đánh chết, người đánh chết không mang tội sát nhân, nhưng nếu vụ việc xảy ra sau khi mặt trời mọc, người đánh chết sẽ mang tội sát nhân. Người trộm cắp phải bồi thường, nhưng nếu không có gì, người ấy phải bị đem bán để bồi thường cho vụ trộm cắp. Nếu tìm lại được con vật bị mất cắp, dù là bò lừa hay cừu trong tay kẻ trộm và con vật vẫn còn sống, kẻ trộm chỉ phải bồi thường gấp đôi. Nếu một người thả gia súc đi ăn trong một cánh đồng hay trong vườn nho rồi để chúng đi lạc qua và ăn trong cánh đồng của người khác, thì phải lấy hoa lợi tốt nhất của cánh đồng hay vườn nho mình để bồi thường thiệt hại. Nếu một người nổi lửa đốt bụi gai rồi lửa cháy lan qua cháy hoa lợi đã gặt, hoa lợi chưa gặt, hay cháy cả cánh đồng của người khác, người đã nổi lửa phải bồi thường thiệt hại. Nếu một người gởi tiền bạc hay đồ vật nhờ hàng xóm giữ hộ, và những món này bị trộm cắp trong nhà của hàng xóm, kẻ trộm sẽ bồi thường gấp đôi nếu bị bắt. Nhưng nếu không bắt được kẻ trộm, người chủ nhà phải đến để các thẩm phán xác định người này có nhúng tay vào vụ trộm cắp tài sản của người kia hay không. Trong trường hợp có người giữ một con bò, lừa, cừu, quần áo hay bất cứ vật gì đã mất cắp và có người nói rằng: ‘Cái này là của tôi’ thì cả hai bên phải đem trình vụ việc. Người bị thẩm phán kết tội phải bồi thường gấp đôi cho láng giềng mình. Nếu một người gửi lừa, bò, cừu hay con vật nào khác cho láng giềng giữ hộ, nhưng con vật bị chết, bị thương hay bị lạc mất khi không có ai chứng kiến, sự tranh chấp giữa hai bên sẽ được giải quyết bằng lời thề trước mặt CHÚA rằng người láng giềng không nhúng tay vào tài sản của người chủ, người này phải chấp nhận lời thề và không được đòi bồi thường. Nhưng nếu con vật bị bắt trộm khi được gởi cho láng giềng giữ, người này phải bồi thường. Nếu con vật bị thú rừng xé xác, người này sẽ đưa xác con vật ra làm tang chứng và sẽ không bị buộc phải bồi thường. Nếu có người mượn của láng giềng một con vật và nó bị chết hay bị thương trong khi không có mặt người chủ, người mượn con vật phải bồi thường, nhưng nếu người chủ có mặt tại đó, người mượn sẽ không phải bồi thường. Nếu con vật được cho mướn, tiền mướn sẽ trang trải số thiệt hại. Trách Nhiệm Xã Hội Nếu một người quyến rũ một người con gái còn trinh chưa hứa hôn với ai và ngủ với nàng, người này phải nộp sính lễ và nàng sẽ thành vợ người. Nếu người cha nhất quyết không chịu gả con gái mình, người kia vẫn phải trả đủ sính lễ như khi cưới con gái còn trinh. Không được để cho người hành nghề phù thủy sống. Người nào nằm với một con vật phải bị xử tử. Người nào dâng tế lễ cho bất cứ thần nào khác, ngoài CHÚA, phải bị tiêu diệt. Đừng bạc đãi ngoại kiều cũng đừng áp bức họ, vì các ngươi đã là ngoại kiều trong xứ Ai-cập. Đừng làm cho các góa phụ và trẻ mồ côi đau khổ. Nếu các ngươi làm cho họ đau khổ, họ sẽ kêu van Ta và chắc chắn Ta sẽ nghe tiếng kêu của họ. Cơn giận của Ta sẽ nổi lên và Ta sẽ dùng gươm giết các ngươi; như vậy vợ các ngươi sẽ thành góa phụ và con các ngươi sẽ thành mồ côi. Nếu các ngươi cho một anh chị em thiếu thốn mượn tiền, đừng lấy lãi như người cho vay vẫn làm. Nếu ngươi cầm quần áo của láng giềng làm của cầm thì phải trả áo lại trước khi mặt trời lặn, vì áo đó là món duy nhất người láng giềng dùng để che thân, thì người đó lấy gì dùng để đắp khi ngủ? Khi người đó kêu van Ta, Ta sẽ nghe, vì Ta giàu lòng thương xót. Đừng nói xúc phạm đến Đức Chúa Trời cũng đừng rủa các cấp quản trị dân mình. Đừng chậm trễ trong việc dâng hiến ngũ cốc và rượu nho. Các ngươi phải dâng con trưởng nam cho Ta. Cũng phải dâng bò và cừu đầu lòng. Hãy để cho chúng ở với mẹ trong bảy ngày, nhưng phải đem chúng dâng cho Ta vào ngày thứ tám. Các ngươi phải là một dân tộc thánh cho Ta. Vậy đừng ăn thịt con vật bị thú rừng cắn xé, nhưng phải quăng nó cho chó ăn. Luật Công Lý Và Nhân Từ Đừng loan tin không đúng. Đừng làm chứng dối giúp người ác. Đừng hùa theo đám đông để làm ác. Khi ngươi là nhân chứng trong một vụ án, đừng hùa theo đám đông mà bẻ cong công lý, cũng đừng thiên vị người nghèo trong phiên tòa. Nếu ngươi gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, phải dẫn nó về cho chủ. Nếu ngươi thấy lừa của kẻ thù ngã quỵ vì chở quá nặng, đừng làm ngơ nhưng phải ra tay giúp đỡ. Đừng làm lệch cán cân công lý trong các vụ kiện liên quan đến người nghèo. Đừng chấp nhận lời cáo gian và đừng để người vô tội hay ngay thẳng phải chịu tử hình, vì Ta không dung thứ người có tội đâu. Đừng nhận hối lộ, vì của hối lộ làm mù mắt người sáng suốt và bẻ cong lời lẽ của người công bình. Đừng áp bức ngoại kiều; chính các ngươi đã biết rõ tâm trạng của ngoại kiều vì các ngươi vốn là ngoại kiều trong xứ Ai-cập. Luật Về Ngày Sa-bát Các ngươi sẽ gieo giống và gặt hái trong sáu năm, nhưng trong năm thứ bảy phải để cho đất nghỉ, không cầy bừa gieo trồng gì cả. Như vậy người nghèo khó của ngươi sẽ kiếm được lương thực ngoài đồng và thú rừng cũng được ăn những gì còn lại. Luật này cũng áp dụng cho vườn nho và vườn ô-liu của các ngươi. Các ngươi làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy phải nghỉ, để cho bò, lừa được nghỉ ngơi, và nô lệ sinh trong nhà ngươi cũng như ngoại kiều đều được dưỡng sức. Phải cẩn thận làm theo mọi điều Ta đã phán dạy. Đừng cầu đảo tên các thần khác, môi miệng ngươi không được nhắc đến tên các thần ấy. Ba Đại Lễ Hằng Năm Mỗi năm các ngươi phải giữ ba đại lễ cho Ta. Phải giữ Lễ Bánh Không Men; trong bảy ngày các ngươi ăn bánh không men, như Ta đã dạy bảo. Lễ này phải giữ đúng thời điểm đã ấn định vào tháng giêng vì vào tháng đó các ngươi ra khỏi Ai-cập. Không một ai đi tay không đến trước mặt Ta. Phải giữ Lễ Mùa Gặt bằng cách dâng hiến hoa quả đầu tiên của hoa lợi do các ngươi canh tác. Phải giữ Lễ Thu Hoạch vào cuối năm, khi các ngươi thu hoạch mùa màng từ ngoài đồng mang về. Mỗi năm ba lần tất cả các người đàn ông phải trình diện trước CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi. Đừng dâng hiến huyết sinh tế cho Ta chung với bất cứ món gì có men. Mỡ của sinh tế không được giữ cho đến sáng hôm sau. Phải đem hoa quả đầu mùa tốt nhất do đất ruộng ngươi canh tác đến Nhà của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đừng nấu dê con trong sữa mẹ nó. Thiên Sứ Của Đức Chúa Trời Ta sai một thiên sứ đi trước các ngươi để bảo vệ các ngươi dọc đường và đem các ngươi vào nơi Ta đã chuẩn bị. Phải chú ý và vâng theo lời thiên sứ dạy bảo. Đừng phản nghịch chống lại thiên sứ, thiên sứ sẽ không tha thứ tội phản nghịch đâu, vì danh Ta ở trong thiên sứ. Nếu các ngươi cẩn thận nghe lời thiên sứ và làm theo mọi điều Ta phán dậy, Ta sẽ chống nghịch kẻ thù của các ngươi và chống đối những người chống đối các ngươi. Thiên sứ Ta sẽ đi trước các ngươi và đem các ngươi vào đất của các dân A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Ca-na-an, Hê-vít và Giê-bu-sít và Ta sẽ quét sạch chúng nó. Đừng sấp mình trước các thần của chúng cũng đừng thờ phượng các thần ấy hay bắt chước các thói tục của họ. Các ngươi phải hủy diệt các thần ấy và đập vụn các trụ thờ của họ. Các ngươi chỉ thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời các người và Ngài sẽ ban phước lành cho thức ăn nước uống của các ngươi. Ta sẽ đem bệnh tật tránh xa các ngươi, trong toàn quốc sẽ không có ai sẩy thai hay son sẻ. Ta sẽ cho các ngươi trường thọ. Ta sẽ sai kinh hoàng đi trước các ngươi và làm náo loạn mọi nước đối nghịch các ngươi. Ta sẽ khiến mọi kẻ thù nghịch các ngươi quay đầu bỏ chạy. Ta sẽ sai ong vò vẽ bay trước các ngươi để đuổi các dân Hê-vít, Ca-na-an và Hê-tít khỏi trước mặt các ngươi. Nhưng Ta sẽ không đuổi chúng nó hết trong một năm, vì nếu làm vậy đất sẽ hoang vu và thú rừng sẽ trở nên quá nhiều, các ngươi không kham nổi. Ta sẽ đuổi chúng lần lần, cho đến khi các ngươi sinh sôi nẩy nở đủ để chiếm hữu toàn xứ. Ta sẽ thiết lập biên giới cho các ngươi từ Biển Đỏ cho đến Biển Phi-li-tin23:31 Địa Trung Hải và từ sa mạc đến Sông Lớn.23:31 Sông Ơ-phơ-rát Ta sẽ trao cho các ngươi các dân tộc sống trong phần đất đó và các ngươi sẽ đuổi họ đi. Đừng kết ước với các dân tộc ấy hay với các thần của họ. Đừng để họ sống lẫn lộn trên đất các ngươi, vì họ sẽ xui giục các ngươi phạm tội với Ta và việc thờ phượng các thần đó chắc chắn sẽ đưa các ngươi vào cạm bẫy.” Giao Ước Được Chấp Nhận CHÚA phán dạy Môi-se: “Con đem A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu và bảy mươi bô lão dân Y-sơ-ra-ên đến với Ta. Họ sẽ thờ phượng từ đằng xa, nhưng chỉ một mình Môi-se được đến gần CHÚA; các người kia không được phép đến gần. Trong dân chúng không ai được theo Môi-se lên núi.” Khi Môi-se đã đi và thuật lại cho dân Y-sơ-ra-ên nghe những lời phán và luật pháp của CHÚA, họ đồng thanh đáp: “Chúng tôi sẽ làm theo mọi điều CHÚA phán dạy.” Môi-se ghi chép lại tất cả những điều CHÚA đã phán. Sáng hôm sau, ông dậy sớm, lập một bàn thờ tại chân núi và dựng lên mười hai trụ đá, tượng trưng cho mười hai bộ tộc Y-sơ-ra-ên. Ông cũng cắt đặt một số thanh niên Y-sơ-ra-ên, và họ dâng tế lễ thiêu và dâng bò tơ làm tế lễ cầu an cho CHÚA. Môi-se đựng một nửa huyết trong một cái chậu còn nửa kia ông đem rảy lên bàn thờ. Rồi ông đem cuốn Sách Giao Ước ra đọc trước dân chúng. Họ đáp: “Chúng tôi sẽ làm theo mọi điều CHÚA phán dạy; chúng tôi sẽ tuân theo.” Môi-se lấy huyết rảy trên dân chúng và nói: “Đây là huyết giao ước CHÚA đã lập với các ngươi đúng theo mọi lời này.” Môi-se, A-rôn, Na-đáp, A-bi-hu và bảy mươi bô lão của dân Y-sơ-ra-ên đứng dậy và trông thấy Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Dưới chân Ngài có cái gì giống như cái bệ bằng ngọc xa-phia, trong sáng như bầu trời xanh. Nhưng Đức Chúa Trời không đưa tay Ngài nghịch các cấp quản trị của Y-sơ-ra-ên; họ trông thấy Đức Chúa Trời rồi ăn uống. CHÚA phán dạy Môi-se: “Con lên núi với Ta và chờ đợi Ta ban cho con mấy bảng đá có luật pháp và điều răn Ta đã ghi chép để dạy dỗ dân Y-sơ-ra-ên.” Môi-se với phụ tá là Giô-suê lên núi của Đức Chúa Trời. Ông căn dặn các bô lão: “Các ông chờ đợi tại đây cho đến khi chúng tôi trở lại. A-rôn và Hu-rơ ở lại với các ông, ai có tranh chấp gì có thể đến với hai ông ấy.” Khi Môi-se lên núi, mây che phủ núi, và vinh quang của CHÚA bao trùm núi Si-nai. Trong sáu ngày, mây che phủ núi và qua ngày thứ bảy CHÚA từ trong đám mây gọi Môi-se. Đối với dân Y-sơ-ra-ên, vinh quang của CHÚA trông giống đám lửa cháy hực trên núi. Khi lên núi, Môi-se vào trong đám mây. Ông ở trên núi bốn mươi ngày và bốn mươi đêm. Tế Lễ Dâng Cho Đền Tạm CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên đem lễ vật dâng cho Ta và con tiếp nhận lễ vật do mỗi người tự nguyện dâng hiến. Đây là những thứ lễ vật con sẽ nhận từ dân chúng: vàng, bạc, đồng, chỉ mầu xanh, tím và đỏ, sợi lanh, lông dê, da cừu nhuộm đỏ, da dê, gỗ si-tim, dầu phong chức và hương thơm, bạch ngọc và các loại ngọc khác để gắn vào ê-phót và bảng đeo ngực. Con bảo họ làm cho Ta một Đền Thánh và Ta sẽ ở giữa họ. Hãy làm Đền Tạm và các vật dụng giống hệt mẫu Ta sẽ chỉ cho con.” Rương Giao Ước “Làm một cái rương bằng gỗ si-tim, dài hai am-ma rưỡi, rộng một am-ma rưỡi và cao một am-ma rưỡi25:10 Nt: 1.25m x 0.75m x 0.75m Dùng vàng ròng bọc bên ngoài lẫn bên trong và làm cái viền bằng vàng quanh rương. Đúc bốn khoen vàng và gắn khoen vào bốn góc rương, hai khoen bên này và hai khoen bên kia. Làm hai cái đòn bằng gỗ si-tim và dùng vàng bọc đòn. Xỏ hai cái đòn vào các khoen hai bên rương để khiêng rương. Phải để đòn khiêng trong khoen, đừng bao giờ rút ra. Sau đó con sẽ để trong rương Bảng Giao Ước Ta sẽ ban cho con. Làm cái Nắp Chuộc Tội bằng vàng ròng, dài hai am-ma rưỡi và rộng một am-ma rưỡi25:17 Nt: 1.25m x 0.75m Làm hai chê-ru-bim bằng vàng đặt ở hai đầu Nắp Chuộc Tội, một chê-ru-bim ở đầu này và một ở đầu kia; hai chê-ru-bim phải dính liền với nắp và đứng ở hai đầu nắp. Các chê-ru-bim đứng đối diện nhau, với hai cánh xòe ra hướng lên phía trên và che trên nắp. Đặt nắp lên trên rương và đặt Bảng Giao Ước Ta sẽ ban cho vào trong rương. Trên Nắp Chuộc Tội, giữa hai chê-ru-bim và trên Rương Giao Ước là nơi Ta sẽ gặp con để ban cho con tất cả các mạng lệnh áp dụng cho dân Y-sơ-ra-ên.” Bàn Bánh Thánh “Đóng một cái bàn bằng gỗ si-tim, dài hai am-ma, rộng một am-ma và cao một am-ma rưỡi25:23 Nt: 1.0m x 0.5m x 0.75m Dùng vàng ròng bọc bàn và làm viền xung quanh bàn. Làm khung xung quanh mặt bàn, bề rộng khung bằng một bàn tay25:25 Độ 8cm và viền vàng quanh khung. Làm bốn khoen vàng để gắn vào bốn chân bàn, ở bốn góc. Các khoen này giữ các đòn dùng để khiêng bàn. Các đòn này được làm bằng gỗ si-tim bọc vàng và được dùng để khiêng bàn. Làm đĩa, muỗng bằng vàng ròng; cũng làm bình và bát bằng vàng ròng dùng cho tế lễ tưới rượu. Phải để bánh thánh trên bàn này trước mặt Ta luôn luôn.” Chân Đèn “Làm một cái chân đèn bằng vàng dát; từ chân đèn đến thân, đài, bầu và hoa của đèn đều dính liền thành một khối. Từ thân đèn mọc ra sáu cành, ba cành bên này và ba cành bên kia. Trên mỗi cành có ba cái đài, hình hoa hạnh nhân, với bầu và nụ, cành kế bên cũng có ba cái đài và tất cả sáu cành từ thân đèn ra cũng giống như vậy. Thân của chân đèn có bốn cái đài hình hoa hạnh nhân, với bầu và nụ. Chân đèn có sáu cành, cứ dưới mỗi hai cành thì có một cái bầu. Tất cả các bầu và cành đều dính liền với chân đèn thành một khối và đều làm bằng vàng ròng đánh dát. Sau đó, làm bảy ngọn đèn rồi đặt trên chân đèn thế nào để ánh sáng chiếu ra phía trước. Kéo cắt tim đèn và đĩa đựng tàn cũng làm bằng vàng ròng. Một ta-lâng25:39 Độ 34kg vàng ròng sẽ được dùng để làm chân đèn và các đồ phụ tùng trên đây. Con phải lưu ý làm các món này đúng theo kiểu mẫu đã cho con xem trên núi.” Đền Tạm Làm Đền Tạm với mười tấm màn dệt bằng chỉ gai mịn mầu xanh, tím và đỏ với hình chê-ru-bim do một người thợ tài giỏi thêu. Tất cả các màn này đều cùng cỡ: bề dài hai mươi tám am-ma và bề ngang bốn am-ma26:2 14m x 2m Kết năm tấm màn thứ nhất dính lại thành một tấm lớn, rồi cũng kết năm tấm màn còn lại thành một tấm lớn. Làm các vòng bằng chỉ xanh dọc theo biên của tấm màn lớn thứ nhất, rồi cũng làm các vòng cho tấm màn lớn thứ hai. Làm năm mươi cái vòng trên một cạnh của tấm màn lớn thứ nhất, cũng làm năm mươi cái vòng trên tấm màn lớn thứ hai, và các vòng trên hai tấm màn này được đặt đối diện nhau. Làm năm mươi cái móc bằng vàng, và dùng các móc này để kết hai tấm màn lớn lại với nhau thành một khối dùng làm Đền Tạm. Cũng lấy lông dê làm mười một tấm màn dùng làm mái che Đền Tạm. Tất cả mười một tấm màn này đều cùng cỡ: bề dài ba mươi am-ma và bề rộng bốn am-ma.26:8 15m x 2m Kết năm tấm màn lại thành một bộ. Sáu tấm màn còn lại cũng được kết thành một bộ nhưng tấm thứ sáu được xếp đôi lại cho phủ xuống trước Đền. Làm năm mươi cái vòng dọc theo đường biên của bộ thứ nhất, và cũng làm năm mươi vòng như vậy cho bộ kia. Rồi làm năm mươi móc đồng để móc liền hai bộ màn lông dê này lại thành một mái che Đền. Mái này có một phần dư ra được thả thòng ở mặt sau Đền; cũng có phần dư ra với chiều dài một am-ma26:13 0.5m để thả thòng hai bên Đền. Phủ trên mái che này một lớp da cừu nhuộm đỏ, rồi phủ trên lớp da cừu một lớp da dê. Làm vách Đền Tạm bằng ván si-tim. Một tấm ván dài mười am-ma, rộng một am-ma rưỡi26:16 5m x 0.75m và đặt thẳng đứng, với hai lỗ móng song song với nhau. Các tấm ván trong Đền Tạm đều có lỗ mộng. Vách phía nam Đền có hai mươi tấm ván, dưới mỗi tấm ván có hai lỗ mộng bằng bạc, tất cả là bốn mươi lỗ mộng cho các tấm ván này. Về phía kia, tức là phía bắc của Đền, cùng làm hai mươi tấm ván và bốn mươi lỗ mộng bằng bạc, hai lỗ mộng cho mỗi tấm ván. Làm sáu tấm cho phía sau, tức là phía tây của Đền; và làm hai tấm ván cho hai góc phía sau này. Ở hai góc này, ván phải làm hai lớp, từ dưới lên đến trên cùng và ghép lại với nhau bằng một cái khoen; cả hai góc đều làm giống như vậy. Như vậy vách này có tám tấm ván và mười sáu lỗ mộng bằng bạc, dưới mỗi tấm ván có hai lỗ mộng. Cũng làm các thanh xà ngang bằng gỗ si-tim: năm thanh xà ngang cho phía này, năm thanh cho phía kia và năm thanh cho phía tây, tức là phía sau của Đền Tạm. Thanh xà ngang chính giữa chạy dài từ đầu này đến đầu kia và nằm ở chính giữa các vách. Lấy vàng bọc các tấm ván vách và làm vòng vàng để giữ các thanh xà ngang. Cũng lấy vàng bọc các thanh này. Con phải dựng Đền Tạm theo mẫu chỉ cho con trên núi. Dệt một tấm màn bằng chỉ lanh mầu xanh, tím và đỏ, rồi một người thợ tài giỏi thêu hình chê-ru-bim lên tấm màn. Dùng móc vàng treo màn này trên bốn trụ gỗ si-tim. Các trụ này đều bọc vàng và được đặt trên bốn đế trụ bằng bạc. Treo bức màn vào các móc và đặt Rương Giao Ước phía sau bức màn. Bức màn này sẽ phân chia Nơi Thánh và Nơi Chí Thánh. Lấy Nắp Chuộc Tội đậy lên Rương Giao Ước và đặt Rương trong Nơi Chí Thánh. Đặt Bàn Bánh Thánh bên ngoài về phía bắc của Đền và đặt cây đèn đối diện với Bàn, về phía nam. Làm một cái màn cho cửa vào Trại,26:36 Đền Tạm màn phải được một thợ thêu dệt bằng chỉ lanh mầu xanh, tím và đỏ. Làm móc bằng vàng để treo màn này trên năm trụ bằng gỗ si-tim bọc vàng. Các trụ này được đặt trong đế trụ bằng đồng. Bàn Thờ Của Lễ Thiêu Đóng một bàn thờ bằng gỗ si-tim hình vuông, dài năm am-ma, ngang năm am-ma, và cao ba am-ma.27:1 2.5m x 2.5m x 1.5m Làm bốn cái sừng và gắn sừng liền vào góc bàn thờ thế nào cho bốn sừng với bàn thờ thành một khối. Dùng đồng bọc bàn thờ. Các vật dụng của bàn thờ là thùng đựng tro, xuồng, bồn chứa nước, đỉnh ba và dĩa đựng than lửa đều làm bằng đồng. Làm một cái rá giữ than bằng lưới đồng và làm bốn cái khoen cho bốn góc rá. Đặt rá dưới thành bàn thờ để nó nhô lên đến một nửa bề cao của bàn thờ. Làm đòn khiêng bàn thờ bằng gỗ si-tim và lấy đồng bọc đòn. Xỏ đòn vào các khoen ở hai bên bàn thờ để khiêng. Bàn thờ làm bằng ván, rỗng ở giữa, đúng theo kiểu mẫu đã chỉ cho con trên núi. Hành Lang Làm một hành lang cho Đền Tạm. Phía nam dài một trăm am-ma27:9 46m có màn sợi lanh, với hai mươi trụ đồng và hai mươi lỗ trụ cũng bằng đồng, cùng với các móc bạc và các đai cũng bằng bạc. Phía bắc cũng dài một trăm am-ma27:11 46m và cũng có màn, với hai trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng, cùng với các móc và đai bạc. Cạnh phía tây của hành lang rộng năm mươi am-ma27:12 23m với các màn được treo trên mười cột trụ đặt trên mười lỗ trụ. Về phía đông, tức là hướng mặt trời mọc, hành lang cũng rộng năm mươi am-ma.27:13 23m Một bên cửa Đền có màn dài mười lăm am-ma27:14 7m treo trên ba cột trụ đặt trên ba lỗ trụ; bên kia cửa vào cũng có màn dài mười lăm am-ma treo trên ba cột trụ đặt trên ba lỗ trụ. Cửa vào hành lang có một bức màn dài hai mươi am-ma,27:16 9m do một người thợ thêu tài giỏi thêu với chỉ gai mịn mầu xanh, tím và đỏ; bức màn được treo trên bốn cột trụ đặt trên bốn lỗ trụ. Tất cả các cột trụ xung quanh hành lang đều được nối liền với nhau bằng cây bạc, các móc cũng bằng bạc và các lỗ trụ bằng đồng. Như vậy chiều dài của hành lang là một trăm am-ma,27:18 46m chiều rộng năm mươi am-ma,27:18 23m với các bức màn bằng sợi lanh bề cao năm am-ma27:18 2.3m và với các lỗ trụ bằng đồng. Tất cả các dụng cụ khác dùng trong Đền Tạm, bất cứ có công dụng gì, kể cả các cọc cắm lều dùng cho Đền và cho hành lang, đều làm bằng đồng. Dầu Dùng Cho Cây Đèn Con truyền cho dân Y-sơ-ra-ên đem dầu trong, ép với trái ô-liu, để đốt đèn cháy sáng luôn. A-rôn và các con trai phải giữ cho đèn cháy sáng luôn trước mặt CHÚA, từ tối đến sáng, trong Trại Hội Kiến, đặt bên ngoài bức màn, bên trong có Rương Giao Ước. Đây là một luật lệ đời đời cho các thế hệ tương lai của dân Y-sơ-ra-ên. Y Phục Của Thầy Tế Lễ Trong dân Y-sơ-ra-ên, con hãy chọn A-rôn, anh con, cùng với các con trai người là Na-đáp, A-bi-hu, Ê-lê-a-sa và Y-tha-ma, để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. May bộ áo lễ thánh cho A-rôn, anh con, để người được uy nghi và đẹp đẽ. Con bảo những người thiện nghệ đã được Ta ban cho sự khôn ngoan để họ may bộ áo lễ A-rôn mặc trong khi được biệt riêng ra thánh và trong chức vụ thầy tế lễ để phục vụ Ta. Sau đây là các phần của bộ áo lễ họ sẽ may: bảng đeo ngực, ê-phót, áo dài, áo lá, khăn đội đầu và đai thắt lưng. Như vậy, họ phải may các bộ áo lễ thánh cho A-rôn và cho các con trai của người, để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. Con bảo họ dùng vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Ê-phót Con bảo một người thợ tài giỏi làm cái ê-phót bằng vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Ê-phót có hai đai vai gắn liền vào hai góc, để có thể thắt chặt lại. Dây thắt ê-phót cũng được làm cách tinh vi và dùng cùng các thứ vật liệu là vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Lấy hai viên bạch ngọc và khắc trên đó tên của các con trai Y-sơ-ra-ên theo thứ tự ngày sinh của họ, sáu tên trên một viên bạch ngọc này và sáu tên trên viên bạch ngọc kia. Khắc tên của các con trai Y-sơ-ra-ên trên hai viên bạch ngọc theo cách người cắt ngọc khắc con dấu. Sau đó đem hai viên ngọc chạm vào hai khuôn vàng và gắn hai viên ngọc này vào hai đai vai của ê-phót làm ngọc tưởng niệm cho các con trai Y-sơ-ra-ên. A-rôn sẽ mang các tên này trên hai vai mình làm kỷ niệm trước mặt CHÚA. Làm các khuôn bằng vàng, với hai sợi dây chuyền bằng vàng ròng, giống sợi dây thừng, rồi gắn hai dây chuyền vào khuôn vàng. Bảng Đeo Ngực Con bảo một người thợ tài giỏi làm một bảng đeo ngực dùng để phán quyết. Làm bảng này bằng các vật liệu dùng để làm ê-phót, là vàng, chỉ mầu xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Bảng này hình vuông, bề dài một gang tay,28:16 22cm bề rộng một gang tay và làm bằng hai lớp vải. Gắn lên bảng bốn hàng ngọc. Hàng thứ nhất có hồng mã não, hoàng ngọc và hồng ngọc; hàng thứ hai có bích ngọc, lam ngọc và kim cương; hàng thứ ba có ngọc hồng bửu, ngọc mã não và ngọc tím; hàng thứ tư có lục ngọc, bạch ngọc và vân ngọc. Chạm các viên ngọc này lên khuôn vàng. Có tất cả mười hai viên cho mỗi con trai của Y-sơ-ra-ên; tên của các bộ tộc được khắc lên các viên ngọc như cách khắc con dấu. Làm các dây chuyền bằng vàng ròng xoắn trôn ốc, giống sợi dây thừng, cho bảng đeo ngực. Làm hai cái khoen vàng gắn liền vào hai góc của bảng đeo ngực. Gắn hai dây chuyền vàng vào hai khoen vàng ở hai góc của bảng đeo ngực; còn đầu kia của hai dây chuyền được gắn vào hai khuôn vàng, để cho liền vào hai đai vai của ê-phót về phía trước. Làm hai khoen vàng và gắn ở góc bên trong của bảng đeo ngực kế bên ê-phót; làm hai khoen vàng khác và gắn vào bên dưới của đai vai ở phía trước ê-phót, sát với đường biên ngay trên dây thắt lưng của ê-phót. Dùng sợi dây mầu xanh buộc bảng đeo ngực với cái ê-phót, qua các khoen vàng, để cho bảng đeo ngực và ê-phót khỏi rời nhau. Mỗi khi vào trong Nơi Thánh, A-rôn sẽ mang trên ngực mình tên của các con trai Y-sơ-ra-ên, là tên được khắc trên bảng đeo ngực để làm kỷ niệm thường xuyên trước mặt CHÚA. Cũng đặt U-rim và Thu-mim trong bảng đeo ngực, để A-rôn đeo trên ngực mình mỗi khi người vào trước sự hiện diện của CHÚA. Các Áo Lễ Khác May áo dài khoác ngoài ê-phót toàn bằng vải xanh, với một cái lỗ để chui đầu ở chính giữa. Dệt một đường viền quanh lỗ này để giữ cho khỏi rách. Thắt trái lựu bằng chỉ xanh, tím, đỏ; kết các trái lựu này theo gấu áo, xen kẽ với chuông vàng. Các chuông vàng và trái lựu được kết xen kẽ với nhau vòng theo gấu của áo dài. A-rôn phải mặc áo này mỗi khi thi hành chức vụ. Người ta sẽ nghe tiếng chuông vàng mỗi khi A-rôn vào Nơi Thánh trước sự hiện diện của CHÚA, và khi ra khỏi nơi này để người khỏi phải chết. Làm một cái thẻ bằng vàng ròng, và khắc trên thẻ như cách khắc con dấu “Thánh cho CHÚA”. Dùng dây mầu xanh buộc thẻ vào khăn đội đầu, ngay ở phía trước khăn. Thẻ sẽ ở trên trán A-rôn và người sẽ mang lấy tội của dân Y-sơ-ra-ên, khi họ dâng tế lễ thánh, bất cứ loại tế lễ nào. Thẻ sẽ thường trực ở trên trán A-rôn để tế lễ được CHÚA chấp nhận. Dệt một áo lót bằng chỉ gai mịn, một khăn đội đầu cũng bằng sợi lanh. Một người thợ thêu sẽ thêu dây thắt lưng. Cũng dệt áo lót, khăn đội đầu và thắt lưng cho các con trai, để cho họ được uy nghi và đẹp đẽ. Sau khi con mặc các bộ áo lễ đó cho A-rôn và các con trai của người, con sẽ xức dầu và biệt họ riêng ra thánh để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. Cũng may quần lót để che thân thể, từ bụng xuống đến đùi. A-rôn và các con trai người phải mặc quần này khi vào Trại Hội Kiến hay khi đến gần bàn thờ để phục vụ trong Nơi Thánh, để họ khỏi mang tội và chết. Đây là một luật lệ đời đời áp dụng cho A-rôn và cho dòng dõi người. Biệt Riêng Ra Thánh Các Thầy Tế Lễ Đây là điều con phải làm để biệt riêng ra thánh cho họ, để cho họ có thể phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ: bắt một con bò đực tơ và hai con cừu đực không khuyết tật, dùng bột mì mịn nhưng không dùng men, để làm bánh lạt, bánh ngọt pha dầu và bánh kẹp tẩm dầu. Để các bánh này vào một cái giỏ để dâng cùng với con bò và hai con cừu. Sau đó con đem A-rôn và các con trai người đến cửa vào Trại Hội Kiến và lấy nước tắm rửa họ. Lấy bộ áo lễ gồm có áo dài, áo khoác ngoài ê-phót, cái ê-phót và bảng đeo ngực để mặc cho A-rôn. Dùng đai thắt lưng đã được dệt cách khéo léo để giữ ê-phót cho chặt. Lấy khăn đội đầu đội lên đầu người và gắn cái thẻ thánh lên khăn. Lấy dầu xức cho người bằng cách đổ dầu lên đầu. Cũng mặc áo dài cho các con trai A-rôn, đội khăn lên đầu họ. Sau đó lấy dây thắt lưng thắt cho A-rôn và các con trai người. Họ sẽ giữ chức vụ tế lễ theo một mạng lệnh đời đời. Đó là cách con biệt riêng ra thánh cho A-rôn và các con trai người. Dắt con bò đực đến trước Trại Hội Kiến, rồi A-rôn và các con trai sẽ đặt tay trên đầu con bò. Giết con bò trước sự hiện diện của CHÚA tại cửa vào Trại Hội Kiến. Con lấy ngón tay, nhúng vào huyết bò và bôi lên các sừng bàn thờ và đổ phần huyết còn lại nơi chân bàn thờ. Lấy hết mỡ bọc ruột, mỡ bọc gan, hai quả thận với mỡ bọc quanh đem đốt trên bàn thờ. Nhưng thịt, da và phân bò phải đem đốt bên ngoài trại quân. Đó là tế lễ chuộc tội. Dắt một con cừu đực đến để A-rôn và các con trai người đặt tay lên đầu nó. Giết cừu và lấy huyết cừu rảy khắp xung quanh bàn thờ. Chặt cừu ra từng miếng; rửa bộ lòng và chân rồi đem để chung với đầu và các miếng khác. Sau đó đem đốt cả con cừu trên bàn thờ. Đó là tế lễ thiêu, một tế lễ có mùi thơm, dùng lửa dâng cho CHÚA. Dắt con cừu thứ hai đến để A-rôn và các con trai người đặt tay lên đầu nó. Giết cừu, lấy huyết cừu bôi lên trái tai bên phải, trên ngón cái bàn tay phải và trên ngón cái bàn chân phải của A-rôn và của các con trai người. Rồi lấy huyết cừu rảy khắp các phía của bàn thờ. Lấy một ít huyết trên bàn thờ trộn với một ít dầu xức, đem rảy trên A-rôn và trên quần áo người, trên các con trai A-rôn và trên quần áo họ. Như vậy A-rôn, các con trai người với quần áo của họ đều trở nên thánh. Vì đây là con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh, nên con lấy mỡ cừu, gồm cả mỡ đuôi và mỡ bọc bộ lòng, phần bọc lá gan, hai trái thận với mỡ bọc quanh, cái đùi phải; cũng lấy trong giỏ bánh không men ở trước mặt CHÚA một ổ bánh, một bánh ngọt pha dầu và một bánh kẹp, rồi đem đặt các món này vào tay A-rôn và tay các con trai người để họ đưa qua đưa lại trước mặt CHÚA, làm tế lễ đưa qua đưa lại. Sau đó con lấy các món ấy từ tay họ và đem đốt trên bàn thờ cùng với tế lễ thiêu có mùi thơm dâng lên CHÚA, và là một tế lễ dùng lửa dâng cho CHÚA. Sau khi con lấy cái ngực con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh, đưa qua đưa lại cái ngực ấy trước mặt CHÚA làm tế lễ đưa qua đưa lại, rồi cái ngực đó sẽ thuộc phần con. Con làm nên thánh các phần của con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh, là các phần thuộc về A-rôn và các con trai người, tức là cái ức đã đưa qua đưa lại với cái đùi đã trình dâng. Đây là phần do dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến và được chia cho A-rôn và các con trai người. Đây là phần do dân Y-sơ-ra-ên đóng góp khi họ dâng tế lễ cầu an cho CHÚA. Bộ áo thánh của A-rôn sẽ được truyền lại cho con cháu, để họ mặc khi được xức dầu và được tấn phong. Người con trai kế vị A-rôn làm thầy tế lễ sẽ mặc bộ áo thánh này trong bảy ngày khi đến Trại Hội Kiến và thi hành chức vụ trong Nơi Thánh. Đem con cừu dùng vào việc biệt riêng ra thánh và nấu thịt nó trong một Nơi Thánh. A-rôn và các con trai người phải ăn thịt con cừu đó với bánh trong giỏ tại cửa vào Trại Hội Kiến. Họ phải ăn các món này là tế lễ chuộc tội và họ được phong chức và được biệt riêng ra thánh. Không một ai khác được ăn các món này, vì là thức ăn thánh. Nếu thịt và bánh còn thừa đến sáng hôm sau, phải đem đốt hết và không được ăn, vì là các món thánh. Con phải thực hiện cho A-rôn và các con trai người tất cả mọi điều Ta truyền bảo con và lễ tấn phong họ sẽ kéo dài trong bảy ngày. Mỗi ngày phải dâng một con bò làm tế lễ chuộc tội. Làm cho bàn thờ tinh sạch bằng cách làm lễ chuộc tội, và thánh hóa bàn thờ bằng cách xức dầu. Trong bảy ngày con làm lễ chuộc tội và thánh hóa bàn thờ. Sau đó bàn thờ sẽ trở nên rất thánh và bất cứ cái gì đụng đến bàn thờ đều trở nên thánh. Đây là những thứ con phải thường xuyên dâng mỗi ngày trên bàn thờ: hai cừu con một tuổi. Dâng một con vào buổi sáng và một con vào chạng vạng tối. Cùng với con cừu thứ nhất, con dâng một phần mười ê-pha29:40 chừng 2l bột mịn trộn với một phần tư hin29:40 chừng 1l dầu ép từ trái ô-liu, và một phần tư hin rượu nho để làm lễ tưới rượu.29:40 Dùng rượu nho rảy trên tế lễ thiêu Dâng con cừu thứ hai vào lúc chạng vạng tối, với tế lễ chay và lễ tưới rượu cũng giống như dâng vào buổi sáng: đó là tế lễ dùng lửa dâng có mùi thơm lên CHÚA. Từ thế hệ này sang thế hệ khác, tế lễ thiêu phải được dâng thường xuyên tại cửa vào Trại Hội Kiến trước mặt CHÚA. Tại đó Ta sẽ gặp và trò chuyện với con; tại đó Ta cũng sẽ gặp dân Y-sơ-ra-ên và vinh quang Ta sẽ làm cho nơi này nên thánh. Như vậy Ta sẽ thánh hóa Trại Hội Kiến và bàn thờ, cũng thánh hóa A-rôn và các con trai người để họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. Ta sẽ ở giữa dân Y-sơ-ra-ên và sẽ là Đức Chúa Trời của họ. Họ sẽ biết Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của họ, Đấng đã đem họ ra khỏi Ai-cập để Ta có thể ở giữa họ. Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời của họ. Bàn Thờ Dâng Hương Làm một bàn thờ bằng gỗ si-tim để dâng hương. Bàn thờ này hình vuông, dài một am-ma, ngang một am-ma và cao hai am-ma,30:2 0.5m x 0.5m 1.0m có các sừng được gắn liền và trở thành một khối với bàn thờ. Dùng vàng ròng bọc mặt bàn, các cạnh bàn, các sừng và làm đường viền khắp xung quanh bàn. Làm mỗi bên bàn hai cái khoen vàng và gắn khoen vào ngay bên dưới đường viền, để giữ đòn khiêng. Làm hai cái đòn khiêng bằng gỗ si-tim bọc vàng. Đặt bàn thờ này trước bức màn che Rương Giao Ước và Nắp Chuộc Tội đậy trên Rương, là nơi Ta sẽ gặp con. A-rôn phải đốt hương thơm trên bàn thờ này vào mỗi buổi sáng, khi trông nom các đèn, và cũng phải đốt hương khi người đốt đèn lúc chạng vạng tối; như vậy hương sẽ được đốt thường xuyên trước mặt CHÚA, từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đừng đốt trên bàn thờ này thứ hương gì khác, cũng đừng dâng tế lễ thiêu hay lễ tưới rượu trên đó. Mỗi năm một lần, A-rôn sẽ thực hiện lễ chuộc tội trên các sừng của bàn thờ. Lễ chuộc tội hằng năm này phải được thực hiện với huyết con sinh tế chuộc tội cho các thế hệ tương lai. Đây là một bàn thờ rất thánh cho CHÚA. Tiền Chuộc Tội Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Khi con kiểm tra dân số Y-sơ-ra-ên, mỗi người phải nộp cho CHÚA một món tiền chuộc mạng. Như vậy chứng bệnh dịch sẽ không phát ra khi con kiểm tra họ. Mỗi người được kiểm kê sẽ nộp nửa sê-ken30:13 Nt: khoảng 6g theo hệ cân đo Nơi Thánh, mỗi sê-ken bằng hai mươi gê-ra. Nửa sê-ken này là tiền dâng hiến cho CHÚA. Tất cả những người được kiểm tra, là người từ hai mươi tuổi trở lên đều phải nộp món tiền dâng này cho CHÚA. Người giàu không nộp hơn nửa sê-ken và người nghèo không nộp kém khi các ngươi dâng hiến cho CHÚA để chuộc mạng sống mình. Con nhận tiền chuộc mạng này do dân Y-sơ-ra-ên nộp và xử dụng vào việc Trại Hội Kiến. Đây là một kỷ niệm cho dân Y-sơ-ra-ên trước mặt CHÚA, khi họ nộp tiền để chuộc mạng mình.” Bồn Nước Bằng Đồng CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Làm một cái bồn bằng đồng, với chân cũng bằng đồng, dùng để rửa ráy. Đặt bồn vào khoảng giữa Trại Hội Kiến và bàn thờ và đổ nước vào bồn. A-rôn và các con trai người sẽ dùng nước trong bồn để rửa tay chân. Bất cứ khi nào vào Trại Hội Kiến, họ phải lấy nước rửa tay chân để khỏi chết. Cũng vậy, mỗi khi đến gần bàn thờ để dâng tế lễ thiêu cho CHÚA họ cũng phải rửa tay và chân để khỏi phải chết. Đây là một mạng lệnh vĩnh viễn cho A-rôn và dòng dõi người từ thế hệ này sang thế hệ khác.” Dầu Thánh CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Con lấy các hương liệu sau đây: năm trăm sê-ken30:23 Khoảng 6kg một dược nước, hai trăm rưởi sê-ken đan quế, hai trăm rưởi sê-ken nhựa thơm,30:23 Khoảng 3kg năm trăm sê-ken quế bì, tất cả đều theo hệ cân đo Nơi Thánh, và một hin30:24 4 lít dầu ô-liu. Một thợ chuyên chế nước hoa sẽ dùng các hương liệu này chế ra một thứ dầu thánh. Đây là một thứ dầu thánh. Dùng dầu này xức lên Trại Hội Kiến, Rương Giao Ước, bàn và các dụng cụ của bàn, chân đèn và các dụng cụ đốt đèn, bàn thờ dâng hương, bàn thờ dâng tế lễ thiêu và các dụng cụ của bàn thờ, bồn nước và chân bồn. Con biệt riêng các món này ra thánh để tất cả đều trở nên rất thánh và bất cứ thứ gì đụng đến cũng đều được thánh hóa. Con xức dầu phong chức lên A-rôn và các con trai người để họ phục vụ Ta trong chức vụ thầy tế lễ. Con cũng hãy nói với dân Y-sơ-ra-ên rằng: ‘Đây là dầu thánh và các ngươi phải coi là một vật thánh. Đừng đổ dầu này trên thân thể của người nào cả và cũng đừng chế dầu theo công thức này. Đây là dầu thánh và các ngươi phải coi là một vật thánh. Bất cứ ai chế dầu giống như dầu này và bất cứ người nào đổ dầu trên người không phải là thầy tế lễ sẽ bị truất ra khỏi hội chúng dân Y-sơ-ra-ên.’ ” Hương Thánh CHÚA phán dạy Môi-se: “Con lấy các hương liệu gồm có hoa yểm hương, phong tử hương và nhũ hương nguyên chất, tất cả đều có phần lượng bằng nhau, và một thợ chuyên chế nước hoa sẽ chế thành một thứ hương thánh. Đây là thứ hương thánh, có muối và tinh chất. Lấy một phần nghiền thành bột và rảy bột này trước Rương Giao Ước trong Trại Hội Kiến là nơi Ta sẽ gặp con. Hương này rất thánh. Không được chế hương theo công thức này để dùng cho mình; phải coi đây là một vật thánh cho CHÚA. Bất cứ ai làm một thứ hương giống hương này để thưởng thức sẽ phải bị truất khỏi hội chúng Y-sơ-ra-ên.” Bết-sa-lê-ên Và Ô-hô-li-áp CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Này, Ta đã chọn Bết-sa-lê-ên, con trai U-ri, cháu Hu-rơ, thuộc bộ tộc Giu-đa, và Ta đã cho người này đầy dẫy thần của Đức Chúa Trời, với tài khéo, khả năng và hiểu biết trong ngành thủ công nghệ, để vẽ kiểu và chế tạo các món bằng vàng, bạc và đồng, để cắt và nhận ngọc, để chạm gỗ và làm các loại thủ công nghệ. Ngoài ra, Ta cũng chỉ định Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc bộ tộc Đan để làm phụ tá cho Bết-sa-lê-ên. Ta cũng ban tài năng cho các thợ khéo để họ thực hiện mọi thứ Ta đã truyền dạy con, kể cả Trại Hội Kiến, Rương Giao Ước với Nắp Chuộc Tội đậy trên Rương và tất cả mọi dụng cụ khác trong Đền, gồm có bàn và các món dụng cụ, chân đèn bằng vàng ròng và các món dụng cụ, bàn thờ dâng hương, bàn thờ dâng tế lễ thiêu và các dụng cụ khác, bồn nước và chân bồn, cũng như các thứ áo lễ: bộ áo lễ thánh cho thầy tế lễ A-rôn, các bộ áo lễ cho các con trai người khi những người này thi hành chức tế lễ, dầu xức thánh và hương thánh cho Nơi Thánh. Họ phải thực hiện các món này đúng theo mạng lệnh Ta đã truyền cho con.” Luật Ngày Sa-bát CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Con hãy truyền mạng lệnh này cho dân Y-sơ-ra-ên: ‘Các ngươi phải giữ ngày Sa-bát của Ta. Đây là một dấu hiệu giữa Ta và các ngươi, từ thế hệ này sang thế hệ khác, để các ngươi biết Ta là CHÚA, Đấng làm các ngươi nên thánh.’ Phải giữ ngày Sa-bát vì là ngày thánh cho các ngươi. Ai vi phạm ngày ấy sẽ bị xử tử, ai làm bất cứ công việc gì trong ngày ấy phải bị truất khỏi hội chúng Y-sơ-ra-ên. Các ngươi làm việc trong sáu ngày, nhưng ngày thứ bảy là ngày Sa-bát tức là ngày nghỉ và thánh cho CHÚA. Ai làm bất cứ công việc gì trong ngày Sa-bát phải bị xử tử. Người Y-sơ-ra-ên phải giữ ngày Sa-bát, từ thế hệ này sang thế hệ khác vì đây là một giao ước đời đời. Đây là một dấu hiệu vĩnh viễn giữa Ta và dân Y-sơ-ra-ên, vì CHÚA dựng nên trời đất trong sáu ngày và qua ngày thứ bảy Ngài dừng công việc và nghỉ ngơi.” Sau khi phán dạy Môi-se những điều này trên núi Si-nai, CHÚA ban cho Môi-se hai bảng Giao Ước, là hai bảng đá do ngón tay của Đức Chúa Trời viết lên trên. Bò Con Vàng Khi thấy đã quá lâu mà Môi-se chưa xuống núi, dân Y-sơ-ra-ên họp quanh A-rôn và nói: “Xin ông làm ra một vị thần để hướng dẫn chúng ta, vì không biết có gì đã xảy ra cho Môi-se, người đã đem chúng ta ra khỏi Ai-cập.” A-rôn đáp: “Hãy tháo các bông tai bằng vàng của vợ, con trai và con gái các ông và đem đến đây cho tôi.” Như vậy dân chúng tháo bông tai của họ và đem đến cho A-rôn. Ông lấy các món họ đem đến, đúc một tượng hình bò con và dùng dụng cụ trau chuốt. Rồi họ reo hò: “Hỡi người Y-sơ-ra-ên, đây là thần của các ngươi, đã đem các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập.” Khi thấy vậy, A-rôn lập một bàn thờ trước con bò con và tuyên bố: “Ngày mai chúng ta sẽ tổ chức lễ mừng CHÚA.” Qua ngày hôm sau dân chúng dậy sớm, dâng tế lễ thiêu và tế lễ cầu an rồi đứng dậy ăn uống vui chơi. Lúc ấy, CHÚA phán dạy Môi-se: “Con xuống núi đi, vì đoàn dân con đem ra khỏi Ai-cập đã hư hỏng rồi. Chúng đã vội bỏ con đường Ta truyền dạy mà làm cho mình một tượng hình bò con. Chúng đã quỳ lạy trước tượng đó, dâng tế lễ cho nó và nói: ‘Hỡi người Y-sơ-ra-ên, đây là thần của chúng ta, đã đem chúng ta ra khỏi Ai-cập.’ ” CHÚA phán tiếp với Môi-se: “Ta đã thấy rõ dân này, chúng là một dân cứng cổ. Con để mặc Ta để cho cơn giận Ta phừng lên nghịch với chúng và Ta sẽ tiêu diệt chúng. Rồi Ta sẽ làm cho con trở thành một dân tộc lớn.” Nhưng Môi-se nài xin ơn huệ của CHÚA, Đức Chúa Trời của mình rằng: “Lạy CHÚA, tại sao cơn giận của Chúa phừng lên nghịch dân Chúa, là dân Chúa đã đem ra khỏi xứ Ai-cập với quyền năng lớn và với cánh tay toàn năng? Tại sao để cho người Ai-cập nói rằng: ‘Khi đem họ ra Chúa có ác ý là để cho họ chết trên núi và để xóa sạch họ khỏi mặt đất?’ Xin Chúa nguôi cơn giận, đổi ý và không giáng tai họa trên dân Chúa. Xin Chúa nhớ lại các tôi tớ của Chúa là Áp-ra-ham, Y-sác và Y-sơ-ra-ên, là những người được Chúa chỉ chính mình Chúa mà thề rằng: ‘Ta sẽ làm cho dòng dõi các ngươi đông như sao trên trời, Ta sẽ ban cho dòng dõi các ngươi tất cả đất đai Ta đã hứa với họ, và đất đó sẽ là cơ nghiệp vĩnh viễn của họ.’ ” CHÚA đổi ý không giáng tai họa trên dân của Ngài như Ngài đã đe dọa. Môi-se quay xuống núi, trong tay có cầm hai bảng Giao Ước. Hai bảng này viết cả hai mặt, mặt trước và mặt sau. Hai bảng này là việc của Đức Chúa Trời làm, chữ trên đó là chữ của Đức Chúa Trời và được khắc trên bảng đá. Khi Giô-suê nghe tiếng dân chúng reo hò liền nói với Môi-se: “Có tiếng chiến tranh trong trại quân.” Nhưng Môi-se đáp: “Đó không phải là tiếng chiến thắng, cũng không phải là tiếng chiến bại; tiếng ta nghe là tiếng hát xướng.” Khi đến gần trại quân và thấy bò con với cảnh nhảy múa, Môi-se nổi giận, ném hai bảng đá vào chân núi, làm vỡ tan tành. Sau đó ông lấy tượng bò con đem đốt trong lửa; rồi ông nghiền tượng nát thành bột, đem bột rắc trên nước và bắt dân Y-sơ-ra-ên uống. Rồi Môi-se nói với A-rôn: “Dân này đã làm gì cho anh mà anh dẫn họ vào tội lỗi trầm trọng như thế này?” A-rôn đáp: “Xin chúa tôi đừng giận; chúa đã biết họ là dân có khuynh hướng làm điều ác. Họ nói với tôi: ‘xin ông làm ra một vị thần để hướng dẫn chúng tôi vì không biết có gì xảy ra cho Môi-se là người đã đem chúng tôi ra khỏi Ai-cập.’ Vì vậy tôi nói với họ: ‘Ai có các món đồ bằng vàng thì tháo ra’. Họ đem vàng đến cho tôi, tôi ném vàng đó vào lửa và từ đó mà ra bò con này.” Môi-se nhận thấy dân chúng phóng đãng, vì A-rôn đã để cho họ buông lung và họ đã trở thành trò cười cho quân thù. Vì vậy ông đứng tại cửa vào trại quân và nói: “Ai thuộc về CHÚA, hãy đến đây với tôi.” Tất cả người Lê-vi tập họp xung quanh Môi-se. Môi-se nói với những người này: “Đây là điều CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán: ‘Mỗi người phải đeo gươm bên mình, rồi đi qua đi lại suốt trại quân từ đầu này đến đầu kia, mỗi người giết anh em, bạn hữu và láng giềng của mình.’ ” Người Lê-vi vâng theo mạng lệnh Môi-se và trong ngày đó có độ ba ngàn người chết. Môi-se nói với họ: “Hôm nay anh em đã được biệt riêng ra cho CHÚA, chẳng sá gì đến cả con cái và anh em mình; vì vậy Chúa giáng phước cho anh em hôm nay.” Qua ngày hôm sau, Môi-se nói với dân chúng: “Anh chị em đã phạm một trọng tội. Nhưng tôi sẽ lên với CHÚA, có lẽ tôi có thể chuộc tội cho anh chị em.” Vậy, Môi-se trở lên gặp CHÚA và thưa: “Chúa ôi! Dân này đã phạm tội quá nặng, đã làm cho mình một thần bằng vàng. Nhưng xin Chúa tha tội cho họ, nếu không, xin Chúa xóa tên con khỏi sách Chúa đã viết đi!” CHÚA đáp lời Môi-se: “Ai phạm tội với Ta, Ta sẽ xóa tên người đó khỏi sách Ta. Còn bây giờ, con phải đi dẫn dân Y-sơ-ra-ên đến nơi Ta đã bảo con và thiên sứ của Ta sẽ đi trước con. Tuy nhiên, khi thời điểm hình phạt đến. Ta sẽ hình phạt dân này vì tội lỗi của họ.” CHÚA giáng bệnh dịch trên dân Y-sơ-ra-ên vì họ thờ phượng bò con A-rôn đã làm ra. Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se rằng: “Con và dân sự con đã đem ra khỏi Ai-cập hãy rời bỏ chỗ này và đi lên xứ Ta đã hứa ban cho Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp khi Ta thề với họ: ‘Ta sẽ ban xứ này cho dòng dõi các con.’ Ta sẽ sai một thiên sứ đi trước dẫn đường cho con và Ta sẽ đuổi các dân Ca-na-an, A-mô-rít, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít đi. Các ngươi sẽ vào xứ tràn đầy sữa và mật ong. Nhưng Ta không đi với các ngươi đâu, vì các ngươi là một dân cứng cổ và Ta có thể tiêu diệt các ngươi dọc đường.” Khi nghe tin dữ này, dân chúng đều khóc than như có tang và không một người nào đeo đồ trang sức. CHÚA có phán bảo Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên: “Các ngươi là một dân cứng cổ; nếu Ta đi với các ngươi, dù chỉ trong một thời gian ngắn, Ta có thể tiêu diệt các ngươi. Bây giờ, hãy tháo hết đồ trang sức, đợi xem Ta sẽ quyết định làm gì cho các ngươi.” Vì vậy ngay từ khi rời khỏi núi Hô-rếp dân Y-sơ-ra-ên tháo hết mọi đồ trang sức. Trại Hội Kiến Lúc đó Môi-se đem cái lều thánh ra dựng bên ngoài trại quân một khoảng xa và gọi lều ấy là “Trại Hội Kiến”. Ai muốn cầu hỏi ý CHÚA đều đến lều này ở bên ngoài trại quân. Mỗi khi Môi-se đi ra Lều, toàn dân đều đứng lên và đứng ở cửa trại của họ, nhìn theo Môi-se cho đến khi ông vào Lều. Vừa khi ông vào Lều, trụ mây hạ xuống và dừng trước cửa trong khi CHÚA trò chuyện với Môi-se. Khi thấy trụ mây dừng ở cửa vào Lều, ai nấy đều đứng lên ở cửa trại mình rồi cúi sấp mình xuống mà thờ phượng. CHÚA đối diện trò chuyện với Môi-se, như một người nói chuyện với bạn mình. Sau đó, Môi-se trở về trại quân, nhưng thanh niên phụ tá ông là Giô-suê, con trai Nun, không rời khỏi Lều. Môi-se Và Vinh Quang Của CHÚA Môi-se thưa với CHÚA: “Chúa có bảo con lãnh đạo dân này, nhưng Chúa không cho con biết Chúa sẽ sai ai đi với con. Chúa cũng đã phán ‘Ta biết đích danh con và con làm vui lòng Ta’. Nếu con làm Chúa vui lòng, xin dạy con đường lối Chúa để con biết Chúa và tiếp tục nhận được đặc ân của Chúa. Xin Chúa nhớ dân này là dân của Chúa.” CHÚA đáp: “Chính Ta33:14 “Sự hiện diện” của Ta sẽ đi với con và sẽ cho con được an nghỉ.” Môi-se thưa: “Nếu chính Chúa không đi với chúng con, xin đừng sai chúng con đi khỏi đây. Làm sao người ta biết được rằng con và dân này được Chúa vui lòng nếu Chúa không đi với chúng con? Việc Chúa đi với chúng con sẽ phân biệt con và dân Chúa với tất cả các dân tộc khác trên mặt đất.” CHÚA phán với Môi-se: “Ta sẽ làm mọi điều con cầu xin, vì con làm Ta vui lòng và vì Ta biết đích danh con.” Lúc ấy Môi-se thưa: “Xin cho con được nhìn xem vinh quang Chúa.” CHÚA đáp: “Ta sẽ bày tỏ đức nhân ái Ta trước mặt con, Ta sẽ tuyên bố danh Ta, là CHÚA trước mặt con. Ta bầy tỏ lòng từ ái với ai Ta muốn từ ái, Ta bày tỏ lòng thương xót với ai Ta muốn thương xót. Nhưng con không thể thấy mặt Ta, vì không ai thấy mặt Ta mà còn sống.” Rồi CHÚA phán tiếp: “Kìa là tảng đá bên cạnh Ta, con hãy đứng nơi đó. Khi vinh quang Ta đi ngang qua, Ta sẽ đặt con vào khe đá và lấy tay che con cho đến khi Ta qua khỏi. Lúc ấy Ta sẽ rút tay lại và con sẽ thấy sau lưng Ta, chứ không thấy được mặt Ta.” Bảng Đá Mới CHÚA phán dạy Môi-se: “Con đục hai bảng đá giống hai bảng trước, và Ta sẽ viết lại trên đó những lời đã viết trên hai bảng con đã đập vỡ. Hãy sẵn sàng, sáng mai con sẽ lên đỉnh núi Si-nai để trình diện Ta. Không ai được đi theo con, cũng không ai được ở trên núi; cả đến bầy bò, cừu cũng không được ăn cỏ dưới chân núi.” Vậy, Môi-se đục hai bảng đá giống hai bảng đá trước. Vừa sáng sớm, Môi-se thức dậy, tay cầm hai bảng đá đi lên núi Si-nai như CHÚA bảo. CHÚA giáng lâm trong đám mây, đứng đó với Môi-se và tuyên bố danh Ngài là CHÚA. Chúa đi ngang qua trước mặt Môi-se và tuyên bố: “Ta là CHÚA, Ta là CHÚA, Đức Chúa Trời có lòng thương xót và ân huệ, chậm giận, đầy dẫy tình thương và thành tín, giữ lòng yêu thương đến ngàn đời, tha thứ gian ác, phản nghịch và tội lỗi; nhưng không để cho người có tội được thoát hình phạt và nhân tội tổ phụ phạt con cháu đến ba bốn đời.” Môi-se lập tức cúi mặt sát đất và thờ phượng. Ông thưa với CHÚA: “Ôi CHÚA! Nếu con được đặc ân dưới mắt Chúa, xin Chúa cùng đi với chúng con. Xin Chúa tha thứ gian ác và tội lỗi chúng con, chấp nhận chúng con là sản nghiệp của Chúa, mặc dù chúng con là một dân cứng cổ.” CHÚA phán: “Này Ta lập giao ước với các con. Trước mặt dân con, Ta sẽ làm những phép lạ trước đây chưa hề thấy trong bất cứ dân tộc nào trên đất. Toàn dân Y-sơ-ra-ên, là dân con chung sống, sẽ thấy những việc hết sức đáng sợ mà Ta, CHÚA, sẽ làm cho các ngươi. Phải tuân theo mạng lệnh Ta truyền cho con hôm nay. Ta sẽ đuổi các dân A-mô-rít, Ca-na-an, Hê-tít, Phê-rê-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít trước mặt các ngươi. Phải cẩn thận không được kết ước với các dân sinh sống trong xứ các ngươi sẽ vào, vì nếu làm vậy, họ sẽ thành cạm bẫy cho các ngươi. Phải hủy phá bàn thờ, đập nát các tượng thờ và triệt hạ các trụ A-sê-ra34:13 Trụ tượng trưng cho nữ thần A-sê-ra của các dân ấy. Đừng thờ lạy bất cứ thần nào khác, vì CHÚA kỵ tà, Đức Chúa Trời Kỵ Tà là danh Ngài. Phải cẩn thận đừng kết ước với các dân bản xứ, vì khi họ hành dâm với các tà thần, dâng sinh tế cho các thần đó rồi mời mọc các ngươi và các ngươi sẽ ăn của cúng. Cũng đừng cưới con gái họ cho con trai các ngươi, vì những người con gái này sẽ hành dâm với các tà thần và hướng dẫn con trai các ngươi thờ lạy các thần ấy. Đừng đúc thần tượng cho các ngươi. Phải giữ lễ Bánh Không Men. Trong bảy ngày phải ăn bánh không men như Ta đã truyền dạy con. Giữ lễ này vào thời điểm đã ấn định trong tháng giêng, vì trong tháng đó các ngươi ra khỏi Ai-cập. Tất cả các con đầu lòng đều thuộc về Ta, kể cả con đực đầu lòng của bầy gia súc, dù là bầy cừu hay bầy bò. Dùng cừu con để chuộc con lừa đầu lòng; nếu không chuộc thì phải bẻ gẫy cổ con lừa. Phải chuộc tất cả con trưởng nam của các ngươi. Không ai đi tay không đến thờ phượng Ta. Các ngươi làm việc trong sáu ngày, nhưng phải nghỉ vào ngày thứ bảy; ngay trong mùa cầy cấy và mùa gặt hái, các ngươi cũng phải nghỉ. Phải giữ lễ Các Tuần với hoa lợi đầu mùa của mùa gặt lúa mì, và lễ Thu Hoạch vào cuối năm.34:22 Vào mùa thu Mỗi năm ba lần tất cả người nam phải đến thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Ta sẽ đuổi các dân tộc khỏi các ngươi, mở rộng bờ cõi các ngươi, và không một ai sẽ thèm muốn xứ sở các ngươi khi các ngươi đến thờ phượng CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi mỗi năm ba lần. Đừng dâng huyết con sinh tế cho Ta chung với men và đừng để thịt sinh tế tế lễ Vượt Qua còn lại đến sáng hôm sau. Phải đem hoa lợi đầu mùa tốt nhất của ruộng đất ngươi lên nhà của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Đừng nấu dê con trong sữa mẹ nó.” Rồi CHÚA phán dạy Môi-se: “Con hãy ghi chép lại những lời này, vì căn cứ trên những lời này mà Ta đã lập giao ước với con và với dân Y-sơ-ra-ên.” Môi-se ở trên núi với CHÚA bốn mươi ngày và bốn mươi đêm, không ăn bánh cũng không uống nước. CHÚA viết trên hai bảng đá lời của giao ước, tức là Mười Điều Răn. Mặt Môi-se Sáng Rực Khi từ trên núi Si-nai xuống, với hai bảng Giao Ước trong tay, Môi-se không biết rằng mặt ông sáng rực vì ông đã trò chuyện với CHÚA. Khi A-rôn và toàn dân Y-sơ-ra-ên thấy mặt Môi-se sáng rực thì sợ không dám đến gần ông. Nhưng khi nghe Môi-se gọi, A-rôn và tất cả các vị quản trị trong hội chúng đến và ông trò chuyện với họ. Sau đó, toàn thể dân Y-sơ-ra-ên cũng đến gần và ông truyền lại cho họ tất cả các mạng lệnh CHÚA đã ban cho ông trên núi Si-nai. Sau khi nói chuyện với họ, Môi-se lấy mạng che mặt mình lại. Nhưng khi vào trong sự hiện diện của CHÚA để thưa chuyện với Ngài, ông tháo mạng che mặt cho đến khi ông trở ra và truyền lại cho dân Y-sơ-ra-ên những mạng lệnh của Chúa. Lúc ấy dân chúng thấy mặt ông sáng rực nên ông lấy mạng che mặt cho đến khi ông trở lại hầu chuyện với CHÚA. Luật Về Ngày Sa-bát Môi-se triệu tập toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên lại và nói với họ: “Đây là những điều CHÚA truyền bảo anh chị em phải vâng giữ. Sáu ngày đầu là những ngày để làm việc nhưng ngày thứ bảy là ngày thánh, tức là ngày nghỉ dành cho CHÚA. Bất cứ người nào làm công việc gì trong ngày đó phải bị xử tử. Lửa cũng không được đốt lên trong ngày Sa-bát, bất cứ nơi nào các ngươi ở.” Vật Liệu Để Dựng Đền Tạm Môi-se nói với toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên rằng: “Đây là điều CHÚA truyền dạy: Anh chị em trích trong của cải mình có để dâng hiến cho CHÚA. Mỗi người tự nguyện đem dâng cho CHÚA vàng, bạc và đồng; chỉ xanh, tím, đỏ, sợi lanh, lông dê, da cừu nhuộm đỏ, da dê, gỗ si-tim, dầu ô-liu để thắp đèn, các hương liệu để chế dầu xức và hương thơm; bạch ngọc và các thứ ngọc để gắn lên ê-phót và bảng đeo ngực. Tất cả những người khéo tay trong dân phải đến để làm mọi thứ CHÚA truyền bảo: Đền Tạm với trại, mái che, móc, khuôn, thanh xà ngang, trụ và đế trụ; Rương Giao Ước với đòn khiêng và Nắp Chuộc Tội, bức màn che Rương; các bàn, đòn khiêng cùng với tất cả phụ tùng và bánh thánh; cây đèn với các đồ phụ tùng, đèn và dầu thắp đèn; bàn thờ dâng hương và đòn khiêng, dầu biệt riêng ra thánh và hương thơm; màn che cửa vào Đền Tạm; bàn thờ dâng tế lễ thiêu, rá đồng, đòn khiêng với các dụng cụ khác; bồn nước bằng đồng và chân bồn; màn che hành lang, trụ và lỗ trụ; màn che cửa hành lang; cọc cắm lều cùng với dây dùng cho Đền Tạm và hành lang; các bộ áo lễ thêu dệt công phu dùng trong Nơi Thánh, gồm có bộ áo lễ thánh cho thầy tế lễ A-rôn và các con trai người khi họ phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ.” Nghe Môi-se dạy xong, toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên ra về. Sau đó những người được lòng mình thúc giục tự nguyện đem đến các lễ vật dâng hiến cho CHÚA để dựng Đền Tạm, làm tất cả trang bị cần thiết cho sự thờ phượng và các bộ áo thánh. Tất cả những người tự nguyện, cả nam lẫn nữ, đều mang đến đủ loại trang sức bằng vàng như vòng đeo mũi, bông tai, nhẫn, vòng đeo tay dâng hiến lên CHÚA. Những người khác đem đến chỉ xanh, tím, đỏ, hay sợi lanh, lông dê, da cừu nhuộm đỏ, da dê để dâng hiến. Tất cả những người nào để dành bạc và đồng dâng lên CHÚA đều mang đến. Những người có gỗ si-tim để dâng vào việc thờ phượng đều mang đến dâng. Các phụ nữ khéo tay đem đến chỉ xanh, vàng, đỏ, và sợi lanh chính tay họ đã làm, cũng có bà tình nguyện dệt lông dê theo khả năng mình. Các cấp lãnh đạo dâng hiến bạch ngọc và các loại ngọc khác để gắn lên ê-phót và bảng đeo ngực. Họ cũng mang đến dầu ô-liu để thắp đèn và các hương liệu để chế dầu tấn phong và hương thơm. Như vậy, toàn dân Y-sơ-ra-ên, cả nam lẫn nữ, đều vui lòng đem dâng hiến lên CHÚA những lễ vật tự nguyện để làm tất cả các công việc CHÚA đã truyền bảo họ qua Môi-se. Bết-sa-lê-ên Và Ô-hô-li-áp Môi-se nói với dân Y-sơ-ra-ên: “Này, CHÚA đã gọi đích danh Bết-sa-lê-ên, con U-ri, cháu Hu-rơ thuộc bộ tộc Giu-đa và cho người đầy dẫy thần của Đức Chúa Trời, với tài khéo, khả năng và hiểu biết về mọi ngành thủ công nghệ, để vẽ kiểu và chế tạo các vật bằng vàng, bạc, đồng, để cắt và nhận ngọc, chạm gỗ và làm mọi công tác mỹ thuật. Bết-sa-lê-ên cùng với Ô-hô-li-áp, con trai A-hi-sa-mạc, thuộc bộ tộc Đan, được Chúa ban cho khả năng để dạy người khác. Chúa cũng phú cho hai người này tài khéo để làm tất cả các công việc chạm trổ thủ công, vẽ kiểu, thêu thùa và dệt với chỉ xanh, đỏ, tím và sợi lanh, vì cả hai đều có biệt tài thủ công và vẽ kiểu.” Như vậy, Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp cùng với những người được CHÚA phú cho tài khéo và khả năng để hiểu biết và thực hiện tất cả công việc liên quan đến việc thờ phượng trong Nơi Thánh phải làm công việc đúng theo mạng lệnh CHÚA truyền. Môi-se triệu tập Bết-sa-lê-ên, Ô-hô-li-áp và những người khác đã được CHÚA phú cho khả năng và có tinh thần tự nguyện đến để bắt tay vào việc. Họ nhận từ tay Môi-se những lễ vật dân Y-sơ-ra-ên đã đem đến dâng vào công việc thờ phượng trong Nơi Thánh. Mỗi buổi sáng dân chúng cứ tiếp tục mang lễ vật đến, làm cho các người thợ chuyên môn đang tham dự vào việc thiết lập Đền Tạm phải dừng công việc. Họ nói với Môi-se: “Dân chúng dâng hiến quá nhiều, hơn số cần thiết để thực hiện các việc CHÚA đã dạy bảo.” Vì vậy Môi-se ra lệnh và cho người loan báo trong khắp trại quân rằng: “Đừng ai đem bất cứ lễ vật nào cho công tác thiết lập Đền Tạm nữa.” Phải ngăn cản dân chúng như vậy để họ đừng dâng hiến thêm, vì đã có thừa vật liệu để làm tất cả các công việc. Đền Tạm Tất cả những thợ khéo nhất trong số người tham gia công tác thiết lập Đền Tạm dệt mười bức màn bằng chỉ lanh mầu xanh, tím và đỏ với hình chê-ru-bim thêu sắc sảo. Mười bức màn này đều có cùng cỡ: dài hai mươi tám am-ma,36:9 14m rộng bốn am-ma36:9 2m Họ nối năm bức màn lại với nhau, năm bức màn kia cũng được nối lại như vậy. Họ kết các vòng bằng chỉ xanh dọc theo đường biên của tấm màn lớn thứ nhất, rồi làm các vòng trên đường biên của tấm thứ hai. Họ cũng làm năm mươi cái vòng trên tấm màn thứ nhất và năm mươi vòng trên tấm màn thứ hai, để cho các vòng đối diện nhau. Sau đó họ làm năm mươi cái móc bằng vàng và dùng các móc này kết hai tấm màn lại thành một đơn vị duy nhất dùng làm Đền Tạm. Họ làm mười một bức màn bằng lông dê để làm cái trại che trên Đền Tạm. Mười một bức màn này có cùng một cỡ: dài ba mươi am-ma, rộng bốn am-ma.36:15 15m x 2m Họ kết năm bức màn này thành một bộ, và kết sáu bức màn còn lại thành bộ thứ hai. Rồi họ làm năm mươi cái vòng dọc theo đường biên của tấm màn lớn thứ nhất, và cũng làm vòng dọc đường biên của tấm màn lớn thứ hai. Họ làm năm mươi móc đồng để kết hai bộ này lại thành một mái lều cho Đền Tạm. Họ cũng làm một tấm phủ che lều bằng da cừu nhuộm đỏ rồi làm bên trên mái này một tấm phủ khác cũng bằng da dê. Họ dùng ván si-tim làm các bức vách thẳng đứng cho Đền Tạm. Mỗi tấm ván dài hai mươi tám am-ma, rộng một am-ma rưỡi,36:21 14m x 0.75m với hai cái mộng song song. Họ làm tất cả các bức vách trong Đền Tạm theo cách này. Họ làm hai mươi tấm ván cho bức vách phía nam Đền Tạm và làm bốn mươi lỗ mộng bằng bạc, mỗi tấm ván có hai lỗ mộng, ngay dưới hai cái mộng của tấm ván. Phía đối diện, tức là phía bắc của Đền Tạm, họ cũng làm hai mươi tấm ván, với bốn mươi đế bằng bạc, cứ mỗi tấm ván có hai đế có ổ ăn khớp với mộng. Họ làm sáu tấm ván cho phía sau, tức là phía tây của Đền Tạm, và làm hai tấm nữa cho hai góc phía sau của Đền Tạm. Ở hai góc này, hai tấm ván được ghép đôi, từ đất lên đến mái, và có một cái khoen cài lại. Cả hai tấm ván ở hai góc đều làm giống nhau. Như vậy phía tây có tám tấm ván và mười sáu đế bằng bạc có ổ ăn khớp với mộng, mỗi tấm ván có hai đế bạc. Họ cũng làm các thanh xà ngang bằng gỗ si-tim: năm thanh cho bức vách ở một phía Đền, năm thanh cho bức vách phía tây, về phía sau của Đền Tạm. Họ cũng làm thanh chính giữa đặt nằm giữa các tấm ván, từ đầu này đến đầu kia của vách. Họ lấy vàng bọc các tấm ván vách và làm các khoen vàng để giữ các thanh xà ngang. Các thanh xà ngang cũng được bọc bằng vàng. Họ làm một bức màn bằng sợi lanh với chỉ xanh, tím, đỏ và có hình chê-ru-bim thêu sắc sảo. Họ làm bốn cây trụ bằng gỗ si-tim để treo bức màn và lấy vàng bọc các trụ này. Họ cũng làm các móc vàng cho các cây trụ, và đúc bốn đế có lỗ trụ bằng bạc để dựng trụ lên. Để che cửa vào Đền Tạm, họ làm một bức màn bằng sợi lanh, thêu với chỉ màu xanh, tím và đỏ rất tinh xảo; họ làm năm cây trụ với các móc, lấy vàng bọc đầu trụ và các đai trụ và làm năm đế có lỗ trụ bằng đồng. Rương Giao Ước Bết-sa-lê-ên đóng cái rương bằng gỗ si-tim, dài hai am-ma rưỡi, ngang một am-ma rưỡi và cao một am-ma rưỡi.37:1 1.25m x 0.75m Ông lấy vàng ròng bọc cả bên trong lẫn bên ngoài và làm đường viền quanh Rương. Ông làm bốn cái khoen vàng và gắn vào bốn chân rương, hai khoen phía này và hai khoen phía kia. Ông cũng làm các đòn khiêng bằng cây si-tim bọc vàng, rồi xỏ đòn vào các khoen ở hai bên để khiêng rương đi. Ông làm Nắp Chuộc Tội bằng vàng ròng, bề dài hai am-ma rưỡi và bề ngang một am-ma rưỡi.37:6 1.25m x 0.75m Ông dùng vàng dát làm hai chê-ru-bim gắn liền ở hai đầu Nắp Chuộc Tội, một chê-ru-bim ở đầu này và một chê-ru-bim ở đầu kia; cả hai được gắn liền vào hai đầu và trở nên một khối với Nắp Chuộc Tội. Các chê-ru-bim đứng đối diện nhau, mặt cúi xuống Nắp Chuộc Tội và xòe hai cánh ra phủ trên Nắp. Bàn Bánh Thánh Ông làm một cái bàn bằng gỗ si-tim, bề dài hai am-ma, bề ngang một am-ma và bề cao một am-ma rưỡi.37:10 1m x 0.5m x 0.75m Ông lấy vàng ròng bọc bàn và làm đường viền quanh bàn. Ông đóng khung quanh mặt bàn, bề rộng của khung bằng một gang tay37:12 8cm rồi làm đường viền vàng xung quanh khung. Ông làm bốn cái khoen và gắn khoen vào bốn chân ở bốn góc bàn. Các khoen này được gắn gần khung của mặt bàn để xỏ đòn dùng khiêng bàn. Các đòn khiêng làm bằng cây si-tim bọc vàng. Ông cũng lấy vàng ròng làm các dụng cụ là: chén đĩa, bát và bình dùng cho lễ tưới rượu. Chân Đèn Bết-sa-lê-ên làm một cây đèn bằng vàng ròng: chân đèn, thân đèn, đài, bầu và nụ đều bằng vàng dát và dính liền với nhau thành một khối. Từ thân đèn mọc ra sáu cành, ba cành bên này và ba cành bên kia. Cành thứ nhất có ba cái hoa, mầm và nụ giống hình hoa hạnh nhân; cành kế bên và cả sáu cành mọc từ thân đèn ra đều có hoa như vậy. Thân đèn có bốn cái hoa, với mầm và nụ, giống hình hoa hạnh nhân. Ông cũng làm một cái bầu bên dưới hai cành thứ nhất từ thân đèn ra, rồi làm cái bầu thứ hai ở dưới hai cành thứ hai, và làm cái bầu thứ ba ở dưới hai cành thứ ba, có tất cả sáu cành. Bầu và cành được làm bằng vàng ròng dát ra, và gắn liền thành một khối với chân đèn. Ông cũng làm bảy ngọn đèn, kéo cắt tim đèn và đĩa đựng tàn bằng vàng ròng. Ông dùng một ta-lâng37:24 34kg vàng ròng để làm chân đèn và đồ phụ tùng. Bàn Thờ Dâng Hương Bết-sa-lê-ên đóng bàn thờ dâng hương bằng gỗ si-tim. Bàn thờ hình vuông, bề dài một am-ma, bề ngang một am-ma và bề cao hai am-ma.37:25 Khoảng 0.5m x 0.5m x 1.0m Các sừng được gắn liền với bàn thờ thành một khối. Ông lấy vàng ròng bọc mặt bàn, các cạnh bàn, các sừng và làm đường viền quanh bàn. Ông làm hai cái khoen vàng, gắn bên dưới đường viền, mỗi bên một khoen, để xỏ đòn khiêng. Ông làm đòn khiêng bằng gỗ si-tim bọc vàng. Ông cũng chế dầu xức thánh và hương thơm tinh khiết, tinh chế cách chuyên nghiệp. Bàn Thờ Dâng Sinh Tế Bết-sa-lê-ên đóng bàn thờ dâng sinh tế bằng gỗ si-tim hình vuông, bề dài năm am-ma, bề ngang năm am-ma và bề cao ba am-ma.38:1 2.5m x 2.5m x 1.5m Ông đẽo bốn góc bàn thờ nhô lên như bốn cái sừng, sừng dính liền vào một khối với bàn thờ, rồi lấy đồng bọc bàn thờ. Ông cũng làm tất cả đồ phụ tùng bằng đồng, gồm có thùng đựng tro, xẻng, bình để rảy, chỉa ba và nồi đựng than lửa. Ông làm một cái rá bằng lưới đồng, đặt dưới thành bàn thờ, để nó thòng xuống đến phân nửa chiều cao của bàn thờ. Ông làm bốn khoen đồng ở bốn góc rá để xỏ đòn khiêng. Các đòn khiêng này làm bằng cây si-tim bọc đồng. Đòn khiêng được xỏ vào các khoen đồng ở hai bên bàn thờ để khiêng đi. Bàn thờ được đóng bằng ván và rỗng ở giữa. Bồn Nước Bằng Đồng Ông dùng các gương soi bằng đồng do các phụ nữ phục vụ tại cửa vào Trại Hội Kiến dâng hiến để làm ra bồn nước và chân bồn. Hành Lang Đền Tạm Sau đó ông làm hành lang. Phía nam hành lang dài một trăm am-ma,38:9 46m có màn che làm bằng sợi lanh, với hai mươi cây trụ và hai mươi lỗ trụ bằng đồng, cùng với các móc và đai bạc gắn vào trụ. Phía bắc hành lang cũng dài một trăm am-ma,38:11 46m với hai mươi cây trụ, hai mươi lỗ trụ bằng đồng, cùng với các móc và đai bạc gắn vào trụ. Phía tây hành lang dài năm mươi am-ma,38:12 23m có màn che, với mười cây trụ và mười lỗ trụ, cùng với các móc và đai bạc gắn vào trụ. Phía đông, là hướng mặt trời mọc, cũng dài năm mươi am-ma.38:13 23m Một bên cửa vào hành lang có bức màn dài mười lăm am-ma,38:14 7.5m cùng với ba cây trụ và ba lỗ trụ; bên kia cửa vào cũng có một bức màn dài mười lăm am-ma, cùng với ba cây trụ và ba lỗ trụ. Tất cả các bức màn chung quanh hành lang đều làm bằng sợi lanh, các cây trụ và lỗ trụ bằng đồng, các móc và đai trụ bằng bạc và các đầu trụ đều bọc bạc. Các cây trụ trong hành lang đều có đai bạc. Bức màn che cửa vào hành lang bằng sợi lanh, do một thợ thêu bằng chỉ xanh, tím và đỏ. Màn này dài hai mươi am-ma,38:18 Khoảng 10.0m có bề cao bốn am-ma38:18 Khoảng 2.0m như các bức màn bao quanh hành lang, cùng với bốn cây trụ và bốn lỗ trụ bằng đồng. Các cây trụ này có móc và đai bằng bạc với đầu trụ bọc bạc. Tất cả các cọc cắm trại dùng cho Đền Tạm và hành lang xung quanh đều bằng đồng. Tổng Kết Vật Liệu Được Xử Dụng Sau đây là tổng số vật liệu dùng để thực hiện Đền Tạm, là Đền Tạm Giao Ước. Những người Lê-vi ghi chép lại tổng số này theo lệnh của Môi-se và dưới sự hướng dẫn của Y-tha-ma, con trai thầy tế lễ A-rôn. Bết-sa-lê-ên, con U-ri, cháu Hu-rơ thuộc bộ tộc Giu-đa, hoàn tất mọi việc theo mạng lệnh CHÚA truyền; cộng tác với ông có Ô-hô-li-áp, con A-hi-sa-mạc, thuộc bộ tộc Đan, là người có tài thủ công, vẽ kiểu và thêu thùa với chỉ xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Tổng số vàng được dùng để thực hiện các công việc trong Đền Tạm, do dân Y-sơ-ra-ên dâng hiến theo cách dâng đưa qua đưa lại, là hai mươi chín ta-lâng vàng38:24 1 ta lâng = 34kg; 1 shê-ken = 11.5g theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh. Tổng số bạc do những người được kiểm tra dân số đem đến dâng là một trăm ta-lâng38:25 Khoảng 3.40kg theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh. Có tất cả sáu trăm lẻ ba ngàn năm trăm năm chục nam công dân từ hai mươi tuổi trở lên được kiểm tra, mỗi người dâng một nửa sê-ken,38:26 Khoảng 5.50g tức là nửa sê-ken, theo tiêu chuẩn cân đo Nơi Thánh. Có một trăm ta-lâng bạc được dùng để làm một trăm lỗ mộng cho các bức màn trong Đền Tạm, có tất cả một trăm lỗ mộng và một trăm ta-lâng, mỗi ta-lâng dùng làm một lỗ mộng. Số một ngàn bảy trăm bảy mươi lăm sê-ken38:28 Khoảng 30kg bạc còn lại được dùng để bọc đầu trụ và để làm móc và đai. Tổng số đồng được dâng hiến theo cách dâng nâng lên là bảy mươi ta-lâng đồng.38:29 Khoảng 2.400 kg Số đồng này được dùng để làm lỗ trụ cho cửa vào Trại Hội Kiến, bàn thờ bằng đồng với rá đồng và các đồ phụ tùng của bàn thờ này, các đế có lỗ trụ của hành lang, các đế có lỗ trụ cửa vào hành lang và tất cả các cọc cắm trại dùng cho Đền Tạm và hành lang. Lễ Phục Của Thầy Tế Lễ Bết-sa-lê-ên dùng chỉ xanh, tím và đỏ để dệt các bộ áo lễ tinh xảo dùng cho công tác phục vụ trong Nơi Thánh và làm bộ áo lễ thánh cho A-rôn, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Ê-phót Bết-sa-lê-ên dùng vàng, chỉ xanh, tím, đỏ và sợi lanh để làm cái ê-phót. Ông dát mỏng vàng, cắt thành sợi rồi thêu cách tinh vi lên sợi lanh cùng với chỉ xanh, tím và đỏ. Họ làm hai cầu vai và nối hết vào hai thân của ê-phót ở hai đầu ráp thành một áo. Thắt lưng cũng được may bằng sợi lanh và thêu bằng vàng sợi, chỉ xanh, tím, đỏ và được gắn thành một với ê-phót, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Ông gắn các viên bạch ngọc vào khuôn vàng và khắc tên các con trai Y-sơ-ra-ên lên ngọc như cách khắc con dấu. Rồi họ gắn các viên ngọc lên hai cầu vai của ê-phót để làm ngọc tưởng niệm cho các con trai Y-sơ-ra-ên, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Bảng Đeo Ngực Bết-sa-lê-ên làm bảng đeo ngực một cách tinh vi, và cũng như khi làm ê-phót, ông dùng vàng, chỉ xanh, tím, đỏ và sợi lanh. Bảng này hình vuông, bề dài một gang tay bề ngang một gang tay và may hai lớp vải. Họ gắn lên bốn hàng ngọc, hàng thứ nhất có hồng mã não, hoàng ngọc và hồng ngọc; hàng thứ nhì gồm có bích ngọc, lam ngọc và kim cương; hàng thứ ba gồm có ngọc hồng bửu, ngọc mã não và ngọc tím; hàng thứ tư gồm có lục ngọc, bạch ngọc và vân ngọc. Ngọc được nhận trên khuôn bằng vàng. Tất cả mười hai viên ngọc, mỗi viên có khắc tên một con trai Y-sơ-ra-ên, theo cách khắc con dấu. Các viên ngọc tượng trưng cho mười hai bộ tộc. Họ làm dây chuyền bằng vàng ròng, bện chặt lại cho bảng đeo ngực. Họ cũng làm hai khuôn vàng với hai khoen vàng và gắn khoen vào hai góc của bảng đeo ngực. Họ gắn một đầu của hai dây chuyền vàng vào hai cái khoen, nơi góc bảng đeo ngực, còn đầu kia gắn vào hai khuôn vàng rồi gắn vào hai cầu vai phía trước ê-phót. Họ làm hai khoen vàng và gắn vào hai góc bên trong của bảng đeo ngực, sát với ê-phót. Họ làm thêm hai khoen vàng khác và gắn vào bên dưới của hai dải đeo vai ở phía trước ê-phót, gần với đường nối ngay trên thắt lưng của ê-phót. Ông dùng dây mầu xanh buộc các khoen của bảng đeo ngực lại với các khoen của ê-phót và để cho bảng đeo ngực nằm yên lên trên đai lưng thêu tinh xảo và không xê dịch trên áo ê-phót, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Các Áo Lễ Khác Áo khoác ngoài ê-phót được dệt toàn bằng chỉ len mầu xanh, có khoét cổ để tròng đầu, quanh cổ áo có đường viền để cho khỏi sờn rách. Họ dùng chỉ mầu xanh, tím, đỏ và chỉ gai thắt trái lựu và kết vòng theo gấu áo. Họ cũng làm các lục lạc bằng vàng và gắn trên gấu áo, xen kẽ giữa các trái lựu. Các chuông vàng và trái lựu được kết xen kẽ quanh gấu áo. Thầy tế lễ phải mặc áo này khi phục vụ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Họ dùng sợi lanh dệt áo dài cho A-rôn và các con trai người. Sợi lanh mịn cũng được dùng để dệt mũ, mũ xếp cao và quần lót ngắn. Dây thắt lưng được dệt với sợi lanh mịn và thêu chỉ xanh, tím, và đỏ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Họ làm một bông hoa, một biệt hiệu thánh bằng vàng ròng và khắc trên đó như khắc dấu ấn dòng chữ: THÁNH CHO CHÚA. Rồi họ dùng dây mầu xanh buộc thẻ vào khăn đội đầu, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Môi-se Thanh Tra Đền Tạm Như vậy việc thiết lập Đền Tạm và Trại Hội Kiến được hoàn tất. Dân Y-sơ-ra-ên làm xong mọi việc đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Họ đem Đền Tạm đến cho Môi-se: lều, các đồ phụ tùng, móc, vách ván, thanh xà ngang, trụ và đế trụ, mái che bằng da cừu nhuộm đỏ, mái che bằng da dê và các bức màn, Rương Giao Ước với đòn khiêng và Nắp Chuộc Tội, bàn với các đồ phụ tùng và bánh thánh, cây đèn bằng vàng ròng, các đèn gắn lên cây đèn theo thứ tự hẳn hoi, tất cả đồ phụ tùng và dầu thắp, bàn thờ bằng vàng, dầu xức, hương thơm và bức màn che cửa Đền, bàn thờ bằng đồng với rá đồng, đòn khiêng và tất cả các đồ phụ tùng, bồn nước và chân bồn, các bức màn che quanh hành lang với các trụ và đế trụ, bức màn che cửa vào hành lang, dây thừng và cọc cắm trại cho hành lang cùng với tất cả các đồ phụ tùng dùng trong Đền Tạm tức Trại Hội Kiến; các bộ áo lễ tinh xảo may dệt cho các thầy tế lễ mặc khi thi hành chức vụ tại Nơi Thánh, kể cả các bộ áo lễ thánh cho thầy tế lễ A-rôn và các con trai người khi họ thi hành chức vụ thầy tế lễ. Dân Y-sơ-ra-ên làm tất cả các công việc đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Môi-se thanh tra và thấy họ làm đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền nên ông chúc phước cho họ. Dựng Đền Tạm Sau đó CHÚA phán dạy Môi-se: “Con dựng Đền Tạm tức Trại Hội Kiến vào ngày mồng một tháng giêng. Đặt Rương Giao Ước vào trong Đền và lấy bức màn để ngăn che Rương. Đem cái bàn vào, sắp đặt các đồ phụ tùng trên bàn. Rồi đem cây đèn vào và gắn đèn lên cây đèn. Đặt bàn thờ dâng hương bằng vàng trước Rương Giao Ước và giăng bức màn che cửa Đền Tạm. Đặt bàn thờ dâng sinh tế trước cửa Đền Tạm, tức là Trại Hội Kiến; đặt bồn nước giữa Trại Hội Kiến và bàn thờ rồi đổ nước vào bồn. Dựng hành lang xung quanh Đền Tạm và giăng bức màn che cửa vào hành lang. Con lấy dầu thánh xức cho Đền Tạm và mọi vật trong Đền; hiến dâng Đền và mọi vật trong Đền và Đền sẽ được thánh hóa. Sau đó con xức dầu cho bàn thờ dâng sinh tế và các đồ phụ tùng; hiến dâng bàn thờ và bàn thờ sẽ trở nên rất thánh. Con cũng xức dầu cho bồn nước và chân bồn và hiến dâng bồn. Con đem A-rôn và các con trai người đến cửa vào Trại Hội Kiến và lấy nước rửa họ. Sau đó mặc cho A-rôn bộ áo lễ thánh, xức dầu cho người và hiến dâng người để người có thể phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. Con cũng đem các con trai A-rôn đến và mặc áo dài cho họ. Xức dầu cho họ cũng như con đã xức dầu cho cha họ để họ có thể phục vụ Ta với chức vụ thầy tế lễ. Lễ xức dầu phong chức thầy tế lễ này có hiệu lực vĩnh viễn từ thế hệ này sang thế hệ khác.” Môi-se làm tất cả mọi điều đúng theo mạng lệnh CHÚA truyền dạy. Như vậy, Đền Tạm được dựng lên vào ngày mồng một tháng giêng năm thứ hai. Khi dựng Đền Tạm, Môi-se đặt các lỗ trụ, dựng các vách ván, đặt các thanh xà ngang và dựng các trụ. Sau đó, ông dựng trại lên che Đền và giăng mái che bên trên trại, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Môi-se để hai bảng đá có ghi Mười Điều Răn vào Rương Giao Ước, xỏ đòn khiêng vào và đặt Nắp Chuộc Tội lên trên Rương. Sau đó ông đem Rương vào Đền Tạm rồi giăng bức màn che, để ngăn che Rương Giao Ước, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Môi-se đặt cái bàn trong Trại Hội Kiến, về phía bắc, bên ngoài bức màn và để bánh thánh trên bàn, trước mặt CHÚA, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Ông đặt cây đèn trong Trại Hội Kiến đối diện với bàn, về phía nam và thắp đèn lên trước mặt CHÚA, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Môi-se đặt bàn thờ bằng vàng trong Trại Hội Kiến trước bức màn rồi đốt hương trên bàn thờ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Sau đó ông giăng bức màn che cửa Đền Tạm. Ông đặt bàn thờ dâng sinh tế gần cửa Trại Hội Kiến rồi dâng tế lễ thiêu và tế lễ chay trên bàn thờ, đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền dạy. Ông đặt bồn nước ở khoảng giữa Trại Hội Kiến và bàn thờ rồi đổ nước vào bồn để rửa. Môi-se, A-rôn và các con trai A-rôn dùng nước này để rửa tay chân. Mỗi lần vào Trại Hội Kiến hay đến gần bàn thờ, họ rửa tay chân đúng theo mạng lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se. Môi-se dựng hành lang xung quanh Đền Tạm và bàn thờ, giăng bức màn che cửa vào hành lang. Vậy, Môi-se đã hoàn tất mọi công việc. Vinh Quang Của CHÚA Một đám mây bao phủ Trại Hội Kiến và vinh quang của CHÚA đầy dẫy Đền Tạm. Môi-se không thể vào Trại Hội Kiến vì mây bao phủ Lều và vinh quang của CHÚA tràn ngập Đền Tạm. Trong suốt cuộc hành trình của dân Y-sơ-ra-ên, mỗi khi thấy trụ mây bay lên khỏi Đền Tạm, họ nhổ trại ra đi nhưng nếu trụ mây không bay lên, họ cũng không ra đi nhưng cứ ở lại cho đến khi trụ mây bay lên. Như vậy toàn dân Y-sơ-ra-ên thấy trụ mây của CHÚA ở trên Đền Tạm vào ban ngày, còn vào ban đêm có lửa trong đám mây trong suốt cuộc hành trình của họ.