- New Vietnamese Bible 2014
Giô-suê
GIÔ-SUÊ
Giô-suê
Giôs
GIÔ-SUÊ
Giới Thiệu
Sách Giô-suê là câu chuyện về dân Y-sơ-ra-ên chiếm cứ vùng đất Ca-na-an dưới sự lãnh đạo của Giô-suê. Những biến cố quan trọng trong sách này là cuộc vượt sông Giô-đanh, thành Giê-ri-cô bị sụp đổ, trận chiến tại A-hi, cuộc tái lập giao ước giữa Đức Chúa Trời và tuyển dân Ngài. Lời tuyên bố được biết đến nhiều nhất của Giô-suê: “… nhưng ta và nhà ta sẽ phụng sự CHÚA.” 24:15
Bố Cục
1. Cuộc chiếm cứ Ca-na-an 1:1–12:24
2. Việc phân chia đất đai 13:1–21:45
a. Vùng phía đông Giô-đanh 13:1-33
b. Vùng phía tây Giô-đanh 14:1–19:51
c. Các thành ẩn náu 20:1-9
d. Các thành của người Lê-vi 21:1-45
3. Các bộ tộc phía đông trở về lãnh thổ của họ 22:1-34
4. Giô-suê từ giả dân chúng 23:1-16
5. Lời hứa giữ giao ước tại Si-chem 24:1-33
CHÚA Gặp Giô-suê
Sau khi Môi-se, đầy tớ CHÚA qua đời. CHÚA phán dạy Giô-suê, con trai của Nun, phụ tá của Môi-se: “Môi-se, đầy tớ Ta, đã chết, bây giờ con và tất cả dân chúng hãy sẵn sàng đi qua sông Giô-đanh, vào xứ mà Ta sắp ban cho dân Y-sơ-ra-ên. Bất luận nơi nào bàn chân con đạp đến thì Ta ban cho các con, như Ta đã hứa với Môi-se. Lãnh thổ các con sẽ trải rộng từ sa mạc và núi Li-ban cho đến Sông Lớn, tức là sông Ơ-phơ-rát, cả nước của người Hê-tít đến tận Biển Lớn phía tây. Suốt đời con, chẳng có ai có thể đứng lên chống lại con. Như Ta đã ở cùng Môi-se, Ta sẽ ở cùng con, Ta sẽ không bao giờ lìa con hay bỏ con đâu.
Con hãy mạnh dạn và can đảm lên vì con sẽ lãnh đạo dân này vào hưởng đất mà Ta đã thề ban cho tổ phụ họ. Con hãy mạnh dạn và cực kỳ can đảm! Hãy cẩn thận vâng giữ tất cả Kinh Luật mà Môi-se, đầy tớ Ta, đã truyền cho con. Đừng xây qua bên hữu hoặc bên tả, ngõ hầu con được thành công bất cứ nơi nào con đến. Quyển sách Kinh Luật này chớ xa miệng con, hãy suy gẫm ngày và đêm hầu cho cẩn thận làm theo mọi điều đã chép trong sách; vì như vậy đường lối con mới được thịnh vượng và thành công. Ta há không có truyền lệnh cho con sao? Hãy mạnh dạn và can đảm lên. Đừng sợ hãi, đừng nản lòng, vì CHÚA, Đức Chúa Trời con sẽ ở với con trong mọi nơi con đi.”
Vậy, Giô-suê ra lệnh cho các người lãnh đạo của dân: “Các ngươi hãy đi khắp toàn quân và bảo dân chúng: ‘Hãy sắm sửa lương thực. Vì ba ngày nữa các ngươi sẽ từ đây vượt qua sông Giô-đanh để vào chiếm hữu xứ mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi ban cho các ngươi.’ ”
Giô-suê cũng bảo người Ru-bên, người Gát và phân nửa bộ tộc Ma-na-se rằng: “Hãy nhớ lại điều Môi-se, đầy tớ CHÚA, đã dặn các ngươi khi người nói rằng: ‘CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi cho các ngươi được an nghỉ và đã ban xứ này cho các ngươi. Vợ, con nhỏ và bầy gia súc các ngươi có thể ở lại trong xứ mà Môi-se đã ban cho các ngươi ở phía đông sông Giô-đanh, nhưng tất cả các nam chiến sĩ trang bị khí giới đầy đủ, phải vượt qua sông trước anh em các ngươi. Các ngươi phải giúp đỡ anh em các ngươi đến khi nào CHÚA cho họ an nghỉ như Ngài đã cho các ngươi, và đến khi nào họ cũng đã nhận được đất đai mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi ban cho họ. Sau đó, các ngươi sẽ trở về xứ mình, là xứ mà Môi-se, đầy tớ của CHÚA, đã ban cho các ngươi ở phía bên này sông Giô-đanh, về hướng mặt trời mọc, rồi các ngươi sẽ chiếm hữu xứ ấy.’ ”
Những người ấy thưa với Giô-suê: “Chúng tôi sẽ làm mọi điều ông dặn biểu và đi khắp nơi nào ông sai chúng tôi đi. Chúng tôi sẽ vâng theo ông trong mọi việc y như đã vâng theo Môi-se. Chỉ mong CHÚA, Đức Chúa Trời ông ở cùng ông như Ngài đã ở cùng Môi-se. Bất cứ ai phản bác lời ông và bất tuân lệnh của ông trong bất cứ việc gì, thì sẽ bị xử tử. Chỉ xin ông hãy mạnh dạn và can đảm.”
Ra-háp Và Các Thám Tử
Giô-suê, con trai Nun bí mật sai hai thám tử ra đi từ Si-tim, ông bảo họ: “Hãy đi trinh sát đất đai, nhất là thành Giê-ri-cô.” Vậy, hai thám tử đi đến nhà của một gái mại dâm tên là Ra-háp và trọ tại đó.
Người ta tâu với vua Giê-ri-cô rằng: “Kìa, đêm nay có người Y-sơ-ra-ên đến trinh sát đất nước chúng ta.” Vua Giê-ri-cô sai người ra lệnh cho Ra-háp: “Hãy đem hai người đã vào nhà ngươi ra ngoài, vì họ đến để trinh sát đất nước chúng ta.” (Nhưng Ra-háp đã đem giấu hai người này.)
Nàng đáp: “Vâng, các anh ấy đã đến nhà tôi, nhưng tôi không biết họ từ đâu đến. Lúc gần tối, cổng thành gần đóng thì hai người đi ra, tôi không biết đi đâu cả; xin cứ đuổi theo gấp thì các ông sẽ theo kịp được.” (Nhưng Ra-háp đem họ lên mái nhà và giấu dưới những cọng lanh2:6 Một loại sậy trồng để lấy sợi dệt vải mà chị đã rải ở trên mái.) Vậy, những người tầm nã đuổi theo các thám tử trên đường đi tới chỗ cạn của sông Giô-đanh. Vừa khi họ ra đi, cổng thành đóng lại.
Trước khi hai thám tử nằm ngủ, Ra-háp leo lên mái nhà mà thưa rằng: “Tôi biết CHÚA đã ban đất nước này cho các ông; chúng tôi vô cùng kinh hoàng; tất cả dân chúng trong nước này đều khiếp sợ các ông. Chúng tôi được tin khi các ông ra khỏi Ai-cập, CHÚA đã khiến nước Biển Đỏ bày ra khô trước mặt các ông, và điều các ông đối xử với Si-hôn và Óc, là hai vua của dân A-mô-rít ở bên kia sông Giô-đanh, mà các ông đã tuyệt diệt. Chúng tôi có hay điều đó, lòng bèn tan ra như nước, chẳng ai trong chúng tôi còn can đảm chống lại các ông nữa, vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ông là Đức Chúa Trời ở trên trời cao kia và ở dưới đất thấp này. Vậy, bây giờ vì tôi đối xử nhân hậu với hai ông, xin hai ông cũng phải đối xử nhân hậu lại cho nhà cha tôi. Hãy chỉ CHÚA mà thề cùng tôi và cho một dấu hiệu quả quyết là các ông sẽ để cha mẹ, anh em, chị em tôi và tất cả bà con của họ đều được sống, cũng cứu chúng tôi khỏi chết.”
Hai thám tử đáp: “Mạng sống chúng tôi đánh đổi các mạng sống của nhà chị. Nếu chị không tiết lộ việc của chúng tôi thì chúng tôi sẽ đãi chị nhân hậu và thành tín khi CHÚA ban đất nước này cho chúng tôi.”
Vậy, Ra-háp dùng một sợi dây dòng hai thám tử xuống nơi cửa sổ vì nhà chị ở ngay trên vách thành. Ra-háp nói: “Hãy leo lên núi, kẻo những người đuổi theo bắt gặp các ông; hãy trú ẩn ở đó ba ngày cho đến chừng nào những người tầm nã trở về, sau rồi các ông sẽ lên đường.”
Hai người bảo Ra-háp: “Đây là cách chúng tôi thực thi lời thề mà nàng đã bắt chúng ta thề; Khi nào chúng tôi vào xứ, chị phải cột sợi dây đỏ này nơi cửa sổ mà chị đã dòng chúng tôi xuống, rồi tập họp cha mẹ, anh em và tất cả bà con của chị ở trong nhà mình. Bất luận ai trong số người đó đi ra khỏi cửa nhà chị, thì huyết người ấy sẽ đổ lại trên đầu mình, còn chúng tôi vô tội; nhưng nếu ai đưa tay đánh giết người nào đang ở cùng chị trong nhà, thì huyết người ấy sẽ đổ lại trên đầu chúng tôi. Còn nếu chị tiết lộ việc của chúng tôi, chắc chắn chúng tôi sẽ khỏi mắc lời thề mà chị đã bắt chúng tôi thề.”
Ra-háp đáp: “Xin cứ theo lời hai ông đã nói.” Rồi Ra-háp cho hai thám tử ra đi, hai ông liền đi. Ra-háp cột sợi dây nơi cửa sổ mình.
Vậy, hai thám tử đi lên núi, ở đó ba ngày cho đến khi những người tầm nã mình quay về. Những người đó kiếm họ suốt đường nhưng không gặp. Hai thám tử liền đi xuống núi trở về; khi họ qua sông Giô-đanh rồi, đến gần Giô-suê, con trai Nun, mà thuật lại cho ông mọi điều đã xảy ra. Hai ông thưa với Giô-suê: “Quả thật CHÚA đã phó cả xứ này vào tay chúng ta, lòng của các dân tộc ấy đều tan ra như nước vì khiếp sợ chúng ta.”
Vượt Sông Giô-đanh
Sáng hôm sau, Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên dậy sớm rời Si-tim đến bờ sông Giô-đanh và cắm trại tại đó trước khi vượt qua sông. Sau ba ngày, các người chỉ huy đi suốt trại quân ra lệnh cho dân chúng: “Khi nào các ngươi thấy Rương Giao Ước của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi dời chỗ, tức là khi các thầy tế lễ người Lê-vi khiêng rương ấy ra đi, thì các ngươi hãy rời chỗ mình đang ở và đi theo Rương ấy. Nhưng phải giữ một khoảng cách với Rương độ hai ngàn am-ma,3:4 Khoảng 900m chứ không được đến gần ngõ hầu các ngươi biết đường phải đi, vì các ngươi chưa đi qua đường này bao giờ.”
Giô-suê bảo dân chúng: “Hãy tự thanh tẩy, vì ngày mai CHÚA sẽ làm những việc diệu kỳ giữa các ngươi.”
Ông cũng bảo các thầy tế lễ: “Hãy khiêng Rương Giao Ước và đi trước dân chúng.” Họ khiêng Rương Giao Ước lên và ra đi trước dân chúng.
CHÚA phán dạy Giô-suê: “Hôm nay Ta sẽ bắt đầu tôn trọng con trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên, để họ biết Ta ở với con như Ta đã ở với Môi-se. Con hãy ra lệnh cho các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước: ‘Khi các ngươi đến bờ sông Giô-đanh, hãy đứng dưới sông.’ ”
Giô-suê bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Hãy lại gần đây để nghe lời của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.” Giô-suê tiếp: “Nhờ việc này, các ngươi sẽ ý thức rằng Đức Chúa Trời hằng sống đang ngự giữa các ngươi, chắc chắn Ngài sẽ đuổi khỏi trước mặt các ngươi các dân Ca-na-an, Hê-tít, Hê-vít, Phê-rê-sít, Ghi-rê-ga-sít, A-mô-rít và Giê-bu-sít. Kìa Rương Giao Ước của CHÚA của cả hoàn cầu sẽ đi qua trước các ngươi vào sông Giô-đanh. Bây giờ, hãy chọn mười hai người trong các bộ tộc Y-sơ-ra-ên, mỗi bộ tộc một người. Khi nào các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước của CHÚA là Chúa Tể trời đất vừa đặt chân xuống nước sông Giô-đanh, nước sông sẽ chia làm hai, dòng nước từ nguồn chảy về sẽ ngưng đọng và tụ lại thành một khối.”
Khi dân chúng nhổ trại để qua sông Giô-đanh, các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước đi trước dân chúng. Lúc ấy, nước sông Giô-đanh dâng ngập các bờ suốt mùa gặt. Khi các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước vừa đến bờ sông, chân họ vừa chạm đến mé nước, nước sông từ nguồn đổ xuống liền ngừng chảy. Nước dồn lại thành một khối trên một khoảng rất dài ngang thành A-đam, gần Xát-than, trong khi nước hạ lưu cứ chảy xuống Biển A-ra-ba (tức biển Muối). Như thế, dân chúng kéo qua sông, trực chỉ Giê-ri-cô. Các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước của CHÚA đứng vững vàng trên đất khô giữa lòng sông Giô-đanh, trong khi dân Y-sơ-ra-ên đi qua sông như trên đất khô, cho đến khi dân chúng đều qua hết.
Mười Hai Tảng Đá
Khi toàn dân đã qua sông Giô-đanh, CHÚA phán dạy Giô-suê: “Con hãy chọn mười hai người dân, mỗi bộ tộc một người, bảo họ lấy mười hai tảng đá giữa sông Giô-đanh ngay tại chỗ các thầy tế lễ đang đứng và khiêng theo các con rồi đặt tại nơi các con nghỉ đêm nay.”
Vậy, Giô-suê tập họp mười hai người ông đã chỉ định trong vòng dân Y-sơ-ra-ên, mỗi bộ tộc một người và bảo họ: “Các ngươi hãy đi trước Rương Giao Ước của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi mà xuống tận giữa sông Giô-đanh. Mỗi người trong các ngươi hãy khiêng một tảng đá trên vai, đúng theo số các bộ tộc Y-sơ-ra-ên để dùng làm dấu chứng giữa các ngươi. Về sau, khi con cháu các ngươi hỏi: ‘Các tảng đá này có nghĩa gì?’ thì hãy thuật cho chúng về dòng nước sông Giô-đanh bị phân rẽ ra trước Rương Giao Ước của CHÚA; khi Rương qua sông Giô-đanh, nước sông chia đôi và các tảng đá này dùng làm đài kỷ niệm đời đời cho con dân Y-sơ-ra-ên.”
Vậy, dân Y-sơ-ra-ên làm theo những điều Giô-suê truyền bảo. Họ lấy mười hai tảng đá giữa sông Giô-đanh, theo số các bộ tộc Y-sơ-ra-ên như CHÚA đã phán dạy Giô-suê. Họ khiêng đá theo đến nơi hạ trại thì đặt xuống đó. Giô-suê lấy mười hai tảng đá từ giữa lòng sông Giô-đanh đem dựng lên tại nơi các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước đã đứng. Các tảng đá vẫn còn đó cho đến ngày nay.
Các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước cứ dừng chân giữa lòng sông Giô-đanh cho đến khi mọi điều CHÚA phán dạy Giô-suê được dân Y-sơ-ra-ên hoàn tất, đúng như Môi-se đã dặn bảo Giô-suê. Dân chúng vội vã kéo qua sông. Vừa khi tất cả đều qua sông hết, Rương Giao Ước của CHÚA và các thầy tế lễ mới đi qua bờ bên kia trước mặt dân chúng. Con cháu Ru-bên, con cháu Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se được vũ trang đều tiến lên dẫn đầu dân Y-sơ-ra-ên, đúng theo lời Môi-se đã dặn bảo. Có độ 40,000 chiến sĩ vũ trang kéo qua sông trước mặt CHÚA, tiến vào các cánh đồng Giê-ri-cô để đánh giặc.
Hôm ấy, CHÚA tôn trọng Giô-suê trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên nên họ tôn kính ông suốt đời như họ đã tôn kính Môi-se.
Khi ấy, CHÚA phán dạy Giô-suê: “Con hãy bảo các thầy tế lễ khiêng Rương Chứng Cớ ra khỏi lòng sông Giô-đanh.”
Vậy, Giô-suê truyền bảo các thầy tế lễ: “Hãy ra khỏi lòng sông Giô-đanh!”
Các thầy tế lễ từ lòng sông lên bờ, khiêng Rương Giao Ước của CHÚA. Ngay lúc họ đặt chân lên đất khô trên bờ, lập tức dòng nước sông Giô-đanh trở lại như cũ và tiếp tục chảy tràn bờ như trước.
Ngày mồng mười tháng một, dân chúng từ lòng sông Giô-đanh tiến lên, hạ trại tại Ghinh-ganh trên ranh giới phía đông thành Giê-ri-cô. Giô-suê dựng mười hai tảng đá lên tại Ghinh-ganh, tức là các tảng đá người ta đã lấy dưới đáy sông Giô-đanh. Ông bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Về sau, khi hậu tự các ngươi hỏi cha ông chúng: ‘Các tảng đá này có nghĩa gì?’ Hãy đáp: ‘Dân Y-sơ-ra-ên đã vượt qua sông Giô-đanh như đi trên đất khô. Vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã làm cho dòng sông Giô-đanh cạn khô trước mặt các ngươi cho đến khi các ngươi đã đi qua hết. CHÚA, Đức Chúa Trời các người đã làm cho sông Giô-đanh y như Ngài đã làm cho Biển Đỏ, khiến nó cạn khô trước mặt chúng ta cho đến khi chúng ta vượt qua sông.’ Ngài thực hiện điều này để tất cả các dân tộc trên khắp đất biết rõ bàn tay quyền năng của CHÚA và để các ngươi luôn kính sợ CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi!”
Lễ Cắt Bì Lớn Tại Ghinh-ganh
Khi tất cả các vua A-mô-rít ở tây bộ sông Giô-đanh và tất cả các vua Ca-na-an dọc miền duyên hải nghe tin CHÚA đã làm cạn sông Giô-đanh trước mặt dân Y-sơ-ra-ên cho đến khi họ vượt qua sông, lòng các vua ấy bèn tan ra như nước và không còn chút can đảm nào đối đầu với dân Y-sơ-ra-ên nữa.
Bấy giờ, CHÚA phán dạy Giô-suê: “Con hãy làm các dao bằng đá và cắt bì cho dân Y-sơ-ra-ên một lần nữa.” Vậy, Giô-suê làm dao đá và cắt bì cho dân Y-sơ-ra-ên tại đồi A-ra-lốt.
Lý do phải cắt bì là vì tất cả những người ra khỏi Ai-cập, tức là những người nam trong tuổi quân dịch, đều đã chết trên đường đi trong sa mạc sau khi rời khỏi Ai-cập. Tất cả những người nam ra khỏi Ai-cập đều đã chịu cắt bì, nhưng tất cả những người sinh trong sa mạc suốt cuộc hành trình từ Ai-cập đều chưa chịu cắt bì. Dân Y-sơ-ra-ên đã đi quanh quẩn trong sa mạc bốn mươi năm cho đến khi tất cả những người nam trong tuổi nghĩa vụ khi họ rời Ai-cập đều qua đời; vì họ không vâng theo lời CHÚA. Vì CHÚA đã thề với họ rằng họ không được thấy lãnh thổ mà Ngài đã hứa với tổ phụ họ sẽ ban cho dân chúng là một vùng đượm sữa và mật. Vậy, Ngài dấy các con trai họ lên thay thế họ; đây là những người được Giô-suê cắt bì. Lúc ấy họ vẫn chưa chịu cắt bì vì suốt cuộc hành trình không có cuộc lễ cắt bì nào cả. Sau khi toàn thể nam đinh đều được cắt bì, họ ở yên tại chỗ trong trại mình cho đến khi được lành.
Rồi CHÚA phán dạy Giô-suê: “Ngày nay, Ta lăn xa khỏi các ngươi sự sỉ nhục của Ai-cập.” Vậy, người ta đặt tên địa điểm này là Ghinh-ganh cho đến ngày nay.
Dân Y-sơ-ra-ên đang cắm trại tại Ghinh-ganh trong đồng bằng Giê-ri-cô thì dự lễ Vượt Qua vào buổi chiều tối ngày mười bốn tháng ấy. Chính ngày sau lễ Vượt Qua, dân chúng bắt đầu ăn thổ sản trong xứ: bánh không men và hạt rang. Một ngày sau khi họ ăn thực phẩm của xứ ấy, thì ma-na không sa xuống nữa; từ đó, dân Y-sơ-ra-ên không còn được hưởng chút ma-na nào nữa, nhưng trong năm ấy họ ăn thổ sản của xứ Ca-na-an.
Thống Tướng Quân Đội CHÚA
Khi Giô-suê đang ở gần Giê-ri-cô, ông ngước mắt lên, nhìn thấy một người đứng ngay trước mặt mình tay cầm gươm trần. Giô-suê đi lên phía người đó mà hỏi: “Ông là người bên ta hay là người bên địch?”
Người ấy đáp: “Không. Ta là Thống Tướng Quân Đội của CHÚA nên Ta đến đây.” Giô-suê quỳ mọp xuống đất lạy và hỏi: “CHÚA ra lệnh cho đầy tớ CHÚA làm gì?”
Thống Tướng Quân Đội CHÚA đáp: “Hãy lột dép khỏi chân ngươi vì nơi ngươi đang đứng là thánh.” Giô-suê liền tuân lệnh.
Bấy giờ thành Giê-ri-cô đã đóng kín cổng vì dân Y-sơ-ra-ên kéo đến; không ai vào ra nữa.
CHÚA phán dạy Giô-suê: “Này Ta đã phó Giê-ri-cô, vua và các chiến sĩ của họ vào tay con. Con hãy đi một lần vòng quanh thành với tất cả các chiến sĩ; phải đi như thế trong sáu ngày liên tiếp. Bảy thầy tế lễ sẽ cầm bảy cái tù và sừng dê đực đi trước Rương Giao Ước. Qua ngày thứ bảy các con hãy đi vòng quanh thành bảy lần với các thầy tế lễ đang thổi tù và. Khi nghe tiếng tù và thổi dài, hãy bảo tất cả đoàn quân lớn tiếng thét lên, lúc ấy vách thành sẽ sụp đổ, rồi quân sẽ leo lên, mỗi người tiến lên ngay phía trước mình.”
Vậy Giô-suê, con trai Nun triệu tập các thầy tế lễ mà bảo: “Hãy khiêng Rương Giao Ước của CHÚA lên, và hãy cho bảy thầy tế lễ cầm tù và đi trước Rương của CHÚA.” Ông cũng ra lệnh cho dân chúng: “Tiến lên! Đi vòng quanh thành với các chiến sĩ vũ trang đi trước rương của CHÚA!”
Sau khi Giô-suê nói cùng dân chúng, bảy thầy tế lễ cầm bảy cái tù và tiến tới trước mặt CHÚA vừa đi vừa thổi tù và. Rương Giao Ước của CHÚA đi theo họ. Các chiến sĩ vũ trang kéo đi trước các thầy tế lễ thổi tù và, còn quân hậu tập đi sau Rương Giao Ước. Suốt thời gian chuyển quân, tù và tiếp tục thổi. Nhưng Giô-suê đã ra lệnh cho dân chúng: “Các ngươi đừng la hét, đừng trò chuyện; cũng đừng nói một lời nào cho đến khi ta ra lệnh hét lên. Lúc đó các ngươi sẽ la hét!” Vậy Giô-suê cho khiêng Rương Giao Ước của CHÚA đi vòng quanh thành một lần, rồi về nghỉ đêm trong trại.
Sáng sau Giô-suê dậy sớm và các thầy tế lễ khiêng Rương Giao Ước của CHÚA lên. Bảy thấy tế lễ cầm bảy cây tù và tiến lên trước; đi trước Rương Giao Ước của CHÚA vừa đi vừa thổi tù và. Các chiến sĩ vũ trang đi lên trước, còn các chiến sĩ hậu tập theo sau Rương của CHÚA trong khi tù và tiếp tục được thổi. Vậy, ngày thứ nhì họ đi vòng quanh thành một lần rồi quay về trại. Họ cứ làm như thế trong sáu ngày.
Ngày thứ bảy họ dậy lúc rạng đông và đi vòng quanh thành bảy lần như trước (chỉ riêng ngày ấy họ đi vòng quanh thành bảy lần). Đến vòng thứ bảy, khi các thầy tế lễ thổi một tiếng dài, Giô-suê ra lệnh cho dân chúng: “Hãy thét lên! Vì CHÚA đã ban cho các ngươi thành này! Thành và tất cả những gì trong ấy đều phó dâng để diệt đi cho CHÚA; chỉ cô gái mại dâm Ra-háp và tất cả những người cùng hiện diện trong nhà với cô được tha mà thôi, vì cô đã giấu các thám tử chúng ta sai đến. Nhưng hãy tránh xa các vật phó dâng để diệt đi hầu cho các ngươi khỏi bị tiêu diệt vì lấy vật nào trong số ấy; nếu không tuân hành các ngươi sẽ làm cho trại quân Y-sơ-ra-ên đáng bị tiêu diệt và chuốc lấy tai họa. Tất cả bạc, vàng, và vật dụng bằng đồng và sắt đều biệt ra thánh cho CHÚA và phải nhập vào kho của Ngài.”
Khi tù và thổi tiếng dài, dân chúng cùng thét lên. Vừa khi nghe tiếng tù và và dân chúng la hét, vách thành sụp đổ; mỗi người xung phong ngay trước mặt mình. Họ chiếm được thành; và dùng gươm diệt mọi sinh vật trong thành, nam phụ lão ấu và các gia súc: bò, cừu và lừa.
Giô-suê bảo hai người đã đi trinh sát xứ: “Các ngươi hãy vào trong nhà cô gái mại dâm ấy, đưa nàng và tất cả những người thuộc về nàng ra ngoài đúng như lời các anh đã thề với nàng.” Vậy hai thanh niên đã đi trinh sát xứ bước vào đưa Ra-háp, cha mẹ và anh em nàng, cùng mọi người thuộc về nàng ra khỏi nhà. Họ đem tất cả gia đình nàng ra khỏi và để họ tại một nơi bên ngoài trại quân Y-sơ-ra-ên.
Rồi họ phóng hỏa thành, thiêu đốt mọi vật trong ấy và đem bạc vàng và các vật dụng bằng đồng, bằng sắt vào trong kho CHÚA, nhưng Giô-suê tha mạng cho Ra-háp với gia đình nàng cùng tất cả mọi người trong nhà nàng, vì nàng đã che giấu những người Giô-suê sai đến trinh sát Giê-ri-cô. Ra-háp tiếp tục ở giữa dân Y-sơ-ra-ên cho đến ngày nay.
Lúc ấy Giô-suê thề rằng: “Kẻ nào khởi công xây lại thành Giê-ri-cô này sẽ bị rủa sả trước mặt CHÚA:
‘Khi đặt nền thành,
Con trưởng nam phải chết;
Khi dựng các cổng thành,
Con út phải thiệt mạng.’ ”
CHÚA ở cùng Giô-suê và ông nổi danh khắp trong xứ.
Tội Ác Của A-can
Nhưng dân Y-sơ-ra-ên đã bất trung thất tín về các vật hiến dâng. A-can, con trai của Cát-mi, cháu của Xáp-đi, chắt của Xê-rách, thuộc bộ tộc Giu-đa đã lấy vài vật hiến dâng nên cơn phẫn nộ của CHÚA nổi phừng lên cùng dân Y-sơ-ra-ên.
Từ Giê-ri-cô Giô-suê sai người đến thành A-hi gần Bết-a-ven, về phía đông Bê-tên mà bảo: “Hãy đi lên trinh sát vùng này.” Vậy hai người ấy đi trinh sát thành A-hi. Họ quay về với Giô-suê mà báo cáo: “Không cần đem toàn thể dân chúng lên đi đánh A-hi. Xin ông chỉ cho vài ba ngàn người lên chiếm thành ấy, đừng làm cho toàn dân phải nhọc công vì dân thành ấy rất ít.” Vậy độ ba ngàn người tiến lên, nhưng họ bị người A-hi rượt đuổi và giết mất độ ba mươi sáu người. Người A-hi đuổi quân Y-sơ-ra-ên từ cổng thành đến tận Sê-ba-rim (các mỏ đá) và đánh giết họ lúc chạy xuống dốc. Được tin này lòng dân tan ra như nước.
Giô-suê xé áo mình và sấp mặt xuống đất trước rương của CHÚA cho đến chiều tối. Các trưởng lão Y-sơ-ra-ên cũng làm như thế và rắc bụi đất lên đầu mình. Giô-suê thưa: “Ôi lạy Chúa tôi, là CHÚA! Tại sao CHÚA đem dân tộc này qua sông Giô-đanh để giao nạp chúng con vào tay dân A-mô-rít để tiêu diệt chúng con? Ước gì chúng con thỏa lòng ở lại bên kia sông Giô-đanh! Ôi lạy CHÚA! con sẽ nói làm sao khi Y-sơ-ra-ên bị quân thù rượt đuổi? Dân Ca-na-an và các dân tộc khác trong xứ này sẽ nghe tin và họ sẽ bao vây chúng con cùng quét sạch danh tính chúng con trên mặt đất. Rồi lúc ấy CHÚA sẽ làm gì cho chính danh lớn của CHÚA?”
CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con hãy đứng dậy! Con sấp mặt xuống đất làm gì? Y-sơ-ra-ên đã phạm tội, bội nghịch giao ước Ta mà Ta đã truyền phải giữ. Chúng đã lấy mấy vật hiến dâng, ăn cắp, nói dối, và để những vật ấy chung với của cải mình. Vì thế dân Y-sơ-ra-ên không thể chống nổi quân thù, phải xây lưng chạy trốn vì tự làm cho mình đáng bị tiêu diệt. Nếu con không tiêu diệt bất luận vật nào đáng bị tiêu diệt giữa các con thì Ta sẽ không còn ở với các con nữa.
Con hãy đi, biệt dân ra thánh và bảo họ: ‘Các ngươi hãy tự thanh tẩy mình để chuẩn bị cho ngày mai vì đây là lời CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên phán dạy: Hỡi Y-sơ-ra-ên, ở giữa ngươi có vật đáng hủy diệt! Ngươi không chống nổi quân thù cho đến khi nào ngươi loại vật ấy ra. Sáng mai, hãy trình diện từng bộ tộc. Bộ tộc nào CHÚA chỉ ra sẽ tiến lên từng gia tộc; gia tộc nào CHÚA chỉ ra sẽ tiến lên từng gia đình; gia đình nào CHÚA chỉ ra sẽ tiến lên từng người. Kẻ nào bị bắt quả tang có vật hiến dâng sẽ bị tiêu diệt trong lửa với tất cả những vật thuộc về nó vì nó đã phạm giao ước của CHÚA và đã làm điều hổ nhục trong Y-sơ-ra-ên!’ ”
Sáng hôm sau trời còn sớm, Giô-suê bảo Y-sơ-ra-ên đến gần từng bộ tộc một, bộ tộc Giu-đa bị chỉ ra. Các gia tộc Giu-đa tiến lên; gia tộc Sê-rách bị chỉ ra. Ông bảo gia tộc Sê-rách tiến lên từng gia đình; gia đình Xáp-đi bị chỉ ra. Giô-suê bảo gia đình Xáp-đi tiến lên từng người; A-can, con Cát-mi, cháu Xáp-đi, chắt Sê-rách trong bộ tộc Giu-đa bị chỉ ra.
Giô-suê bèn bảo A-can: “Con ơi, hãy tôn vinh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên và ca ngợi Ngài. Con hãy khai cho ta điều con đã làm, đừng giấu diếm.”
A-can đáp: “Thật, tôi đã phạm tội chống nghịch CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. Đây là điều tôi đã làm: khi thấy trong chiến lợi phẩm một chiếc áo dài Si-nê-a đẹp đẽ, hai trăm sê-ken7:21 2.30kg bạc và một nén vàng nặng năm mươi sê-ken,7:21 0.60kg tôi tham muốn các vật ấy và lấy đi, đem giấu dưới đất trong trại tôi, còn bạc thì ở dưới.”
Vậy, Giô-suê sai người chạy đến trại thấy các vật ấy giấu trong trại, còn bạc thì ở dưới. Họ lấy các vật đó trong trại, đem về cho Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên rồi bày ra trước mặt CHÚA. Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên bắt A-can, con cháu Sê-rách, cùng lấy bạc, áo dài, vàng, đem luôn các con trai con gái, bày gia súc, lừa, cừu, trại và tất cả vật sở hữu của ông và dẫn đến thung lũng A-cô. Giô-suê nói: “Tại sao ngươi mang họa đến cho chúng ta? CHÚA sẽ mang họa đến cho ngươi ngày nay.”
Rồi toàn dân Y-sơ-ra-ên ném đá A-can. Sau khi ném đá gia đình A-can, họ hỏa thiêu các người ấy. Họ chất trên các thây ấy một đống đá lớn, đến ngày nay vẫn còn. CHÚA liền nguôi cơn giận phừng phừng. Từ đó đến nay, người ta gọi chỗ này là thung lũng A-cô.7:26 Nghĩa là tai họa
Tiêu Diệt Thành A-hi
Lúc ấy, CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con đừng sợ cũng đừng nản lòng. Con hãy đem toàn dân theo con, kéo lên tấn công A-hi. Vì Ta đã giao nạp vào tay con vua của A-hi, dân chúng, thành và lãnh thổ nó. Con hãy đối xử với A-hi như đối xử với Giê-ri-cô và vua nó, chỉ khác một điều là lần này các ngươi được lấy các chiến lợi phẩm và gia súc về cho mình. Con hãy mai phục đằng sau thành.”
Vậy, Giô-suê và toàn thể quân đội ra đi tấn công A-hi. Ông chọn 30,000 chiến sĩ tinh nhuệ nhất và sai họ xuất quân ban đêm cùng truyền lệnh: “Này! Các ngươi phải mai phục đằng sau thành. Đừng đi quá xa thành. Tất cả phải trong thế ứng chiến. Ta và tất cả quân đội ta sẽ tiến đánh mặt tiền thành. Khi địch ra khỏi thành đánh lại chúng ta như chúng đã làm hôm trước, chúng ta sẽ bỏ chạy. Địch sẽ đuổi theo chúng ta cho đến khi nào chúng ta đã dụ chúng ra khỏi thành, vì chúng sẽ nói: ‘Chúng đang chạy trốn chúng ta như lần trước.’ Vậy, khi chúng ta chạy trốn trước mặt chúng, các ngươi phải vùng dậy ra khỏi nơi mai phục và chiếm thành. CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi sẽ giao thành ấy vào tay các ngươi. Chiếm thành xong, các ngươi hãy phóng hỏa đốt thành ấy. Hãy tuân hành mệnh lệnh của CHÚA. Đây là lệnh ta truyền cho các ngươi.”
Giô-suê sai cánh quân ấy ra đi. Họ đến nơi mai phục và nằm đợi giữa Bê-tên và A-hi, phía tây thành A-hi. Tối hôm ấy, Giô-suê ở với dân chúng.
Sáng hôm sau, Giô-suê dậy sớm điểm quân rồi cùng với các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên đi trước quân đội tiến lên A-hi. Toàn quân theo Giô-suê đều tiến lên gần thành, và đến ngay trước mặt thành. Rồi hạ trại phía bắc A-hi; có cái trũng chạy giữa họ và A-hi. Giô-suê đã cho 5,000 quân mai phục giữa Bê-tên và A-hi về phía tây của thành này. Toàn thể quân đội đều bố trí sẵn sàng, tất cả binh sĩ trong trại phía bắc thành phố cũng như cánh quân mai phục phía tây. Đêm ấy, Giô-suê tiến vào trũng.
Thấy vậy, vua của A-hi và tất cả dân trong thành vội vã kéo ra khi trời vừa sáng để giáp trận với quân Y-sơ-ra-ên tại một địa điểm có thể nhìn xuống A-ra-ba, nhưng vua A-hi không ngờ có quân mai phục phía sau thành. Giô-suê và quân Y-sơ-ra-ên để cho địch đẩy lui và chạy trốn về hướng sa mạc. Tất cả những người nam trong thành A-hi đều được huy động rượt đuổi quân thù. Họ đuổi theo Giô-suê và bị dụ ra xa thành. Không còn một người nam nào ở lại trong thành A-hi hay Bê-tên. Tất cả đều đuổi theo quân Y-sơ-ra-ên, bỏ ngỏ thành.
Lúc ấy, CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con hãy đưa ngọn giáo con cầm trong tay hướng về A-hi vì Ta sẽ giao thành vào tay con.” Vừa đưa tay lên, phục binh nhanh chân đứng dậy chạy vào chiếm đóng và lập tức phóng hỏa thành.
Quân A-hi quay lại nhìn thấy khói từ thành bốc lên trời, nhưng họ không cách nào trốn thoát, chạy về hướng nào cũng không được vì quân Y-sơ-ra-ên đang chạy trốn về phía sa mạc đã quay lại phản công quân địch rượt đuổi mình. Vì khi Giô-suê và toàn quân Y-sơ-ra-ên thấy phục binh đã chiếm được thành và thấy luồng khói bốc lên thì họ quay lại tấn công quân A-hi. Cánh quân mai phục cũng kéo ra ngoài thành đánh quân A-hi nên quân A-hi bị vây chính giữa, còn quân Y-sơ-ra-ên tiến đánh cả hai mặt. Quân Y-sơ-ra-ên tàn sát địch không còn một người nào sống hay đào thoát. Nhưng quân Y-sơ-ra-ên bắt sống vua A-hi đem về cho Giô-suê.
Khi quân Y-sơ-ra-ên đã giết xong tất cả dân thành A-hi, người ngoài đồng, người trong sa mạc mà họ đã săn đuổi. Khi tất cả đã ngã chết dưới lưỡi gươm đến người cuối cùng, quân Y-sơ-ra-ên quay lại A-hi và dùng gươm giết những kẻ còn ở trong thành. Số người ngã chết hôm ấy là 12,000 người, cả nam lẫn nữ, tức là toàn dân A-hi. Vì Giô-suê không thu lại cây giáo tay ông đã đưa ra cho đến khi tuyệt diệt toàn dân A-hi. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên bắt các bày gia súc đem về và cướp đoạt tài sản trong thành y như CHÚA đã chỉ định cho Giô-suê.
Vậy, Giô-suê phóng hỏa làm cho nó thành một đống đổ nát điêu tàn vĩnh viễn cho đến ngày nay. Ông treo vua của A-hi trên cây cho đến chiều tối. Khi mặt trời lặn, Giô-suê sai đem xác vua xuống khỏi cây và liệng xuống tại lối vào cổng thành. Người ta chất trên xác ấy một đống đá lớn, vẫn còn cho đến ngày nay.
Tái Lập Giao Ước Tại Núi Ê-banh
Giô-suê xây một bàn thờ cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, trên núi Ê-banh theo lệnh của Môi-se, đầy tớ của CHÚA, đã truyền lại cho Y-sơ-ra-ên. Ông xây bàn thờ ấy đúng theo điều sách luật Môi-se đã quy định, xây bằng đá nguyên khối, không dùng khí cụ bằng sắt. Người ta dâng cho CHÚA các tế lễ thiêu và các tế lễ cầu an. Tại đó, trước mặt dân Y-sơ-ra-ên, Giô-suê chép trên đá Kinh Luật của Môi-se như người đã ghi. Toàn dân Y-sơ-ra-ên, công dân cũng như ngoại kiều, đều cùng các trưởng lão, quan chức và thẩm phán đứng hai bên Rương Giao Ước của CHÚA đối diện với những người khiêng Rương tức là các thầy tế lễ người Lê-vi. Phân nửa dân chúng đứng đối ngang núi Ga-ri-xim, và phân nửa đối ngang núi Ê-banh như Môi-se, tôi tớ CHÚA đã long trọng truyền bảo khi ông ra chỉ thị chúc phước cho dân Y-sơ-ra-ên.
Sau đó, Giô-suê đọc tất cả những lời trong Kinh Luật, chúc phước cũng như rủa sả, đúng như đã ghi trong Sách Kinh Luật. Không một lời nào Môi-se đã truyền dạy mà Giô-suê không đọc trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên, kể cả phụ nữ, trẻ con, cũng như các ngoại kiều đang sống giữa họ.
Người Ga-ba-ôn Lừa Gạt Y-sơ-ra-ên
Lúc ấy, tất cả các vua ở tây bộ sông Giô-đanh đều nghe các việc này, các vua vùng rừng núi, vùng đồi thấp dưới chân núi miền tây và vùng ven Biển Lớn đến tận Li-ban (tức là vua dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít và dân Giê-bu-sít) đều họp nhau để giao chiến với Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên.
Nhưng khi dân Ga-ba-ôn nghe tin những điều Giô-suê đã làm cho Giê-ri-cô và A-hi, bèn dùng mưu kế: họ cử một phái đoàn cưỡi lừa chở đầy những bao cũ mòn và bầu rượu cũ nứt, vá lại. Nhân viên phái đoàn mang dép mòn chắp vá và mặc quần áo cũ kỹ; tất cả bánh mang theo đều khô cứng và nổi mốc. Họ đến gặp Giô-suê tại trại quân Ghinh-ganh và thưa với ông và người Y-sơ-ra-ên: “Chúng tôi từ một xứ xa xôi, bây giờ xin quý ngài lập hòa ước với chúng tôi.”
Dân Y-sơ-ra-ên đáp với người Hê-vít: “Biết đâu các ông ở gần chúng tôi đây. Làm thế nào lập hòa ước với các ông được.”
Họ nói với Giô-suê: “Chúng tôi là đầy tớ của ông.” Nhưng Giô-suê chất vấn: “Các ông là ai? Từ đâu đến đây?”
Họ đáp: “Đầy tớ các ông từ một xứ rất xa đến đây vì nghe danh tiếng của CHÚA, Đức Chúa Trời các ông. Chúng tôi cũng đã nghe báo cáo về Ngài: tất cả những việc Ngài đã làm tại Ai-cập, và tất cả những điều Ngài làm cho hai vua dân A-mô-rít ở đông bộ sông Giô-đanh, tức là Si-hôn, vua Hết-bôn, và Óc, vua Ba-san, trị vì tại Ách-ta-rốt. Các trưởng lão và tất cả dân chúng trong nước chúng tôi bảo chúng tôi: Hãy lấy lương thực dùng dọc đường rồi đi gặp họ và nói: Chúng tôi là đầy tớ quý vị; bây giờ xin quý vị lập hòa ước với chúng tôi. Bánh mì của chúng tôi còn nóng hổi ngày chúng tôi rời nhà và mang theo, mà ngày nay đã khô và mốc meo. Những bầu rượu này còn mới khi chúng tôi đổ rượu vào, mà nay đã nứt bể; áo quần và giầy dép chúng tôi đã cũ mòn vì đi đường rất xa.”
Dân Y-sơ-ra-ên thử lương thực của họ nhưng không cầu vấn CHÚA. Giô-suê bèn lập hòa ước với họ, bảo đảm để cho họ sống và các nhà lãnh đạo hội chúng thề nguyện để thông qua hòa ước ấy.
Ba ngày sau khi lập ước với người Ga-ba-ôn, dân Y-sơ-ra-ên mới nghe rằng họ là người lân cận và ở gần mình. Dân Y-sơ-ra-ên lên đường và đến ngày thứ ba đã đến các thành: Ga-ba-ôn, Kê-phi-ra, Bê-ê-rốt, và Ki-ri-át Giê-a-rim. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên không tấn công họ, vì các nhà lãnh đạo của hội chúng đã thề nguyện với dân này trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
Cả hội chúng lằm bằm nghịch cùng các nhà lãnh đạo; nhưng tất cả các nhà lãnh đạo đáp: “Chúng tôi đã nhân danh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, mà thề nguyện cùng dân đó, nên bây giờ chúng ta không thể nào động đến họ nữa. Đây là cách chúng ta đối xử với họ: phải để cho họ sống, đừng vì lời thề nguyện mà chuốc lấy cơn phẫn nộ của CHÚA trên chúng ta.” Các nhà lãnh đạo Y-sơ-ra-ên tiếp: “Hãy để cho họ sống nhưng phải làm dân công đốn củi xách nước cho cả hội chúng.” Vậy, họ giữ lời hứa của các nhà lãnh đạo.
Lúc ấy Giô-suê triệu tập dân Ga-ba-ôn và bảo: “Tại sao các ngươi lừa gạt chúng ta rằng: chúng tôi ở rất xa các ông mà thật ra các ngươi ở gần chúng ta? Bây giờ các ngươi bị rủa sả: các ngươi không bao giờ thôi làm nô lệ, mãi mãi đốn củi và xách nước cho nhà của Đức Chúa Trời ta.”
Họ thưa cùng Giô-suê: “Đầy tớ của ông được nghe rõ rằng: CHÚA, Đức Chúa Trời của các ông, đã phán dặn Môi-se, đầy tớ Ngài, ban cho quý vị toàn xứ này và tiêu diệt tất cả dân cư trong xứ trước mặt mình. Vì sợ quý vị giết hại mạng sống nên chúng tôi mới làm như thế. Bây giờ, chúng tôi ở trong tay quý vị; quý vị cứ đối xử với chúng tôi theo điều quý vị thấy là tốt và phải lẽ.”
Vậy, Giô-suê giải cứu họ khỏi bị dân Y-sơ-ra-ên giết. Từ ngày đó, ông cắt đặt dân Ga-ba-ôn làm người đốn củi và xách nước cho hội chúng và cho bàn thờ CHÚA tại nơi nào Ngài sẽ chọn. Đó là việc họ làm cho đến ngày nay.
Mặt Trời Đứng Yên
Lúc ấy, A-đô-ni Xê-đéc, vua Giê-ru-sa-lem, được tin Giô-suê đã chiếm A-hi và tiêu diệt thành ấy, đối xử với thành A-hi và vua nó như ông đã đối xử với thành Giê-ri-cô và vua nó, cũng được tin dân Ga-ba-ôn đã lập hòa ước với dân Y-sơ-ra-ên và sống chung với họ. Vua và toàn dân lo sợ vì Ga-ba-ôn là một thành quan trọng, kể như một thành của vua lớn hơn A-hi, và tất cả người nam của Ga-ba-ôn đều là chiến sĩ thiện nghệ.
Vậy A-đô-ni Xê-đéc, vua Giê-ru-sa-lem kêu gọi Hô-ham, vua Hếp-rôn, Phi-ram, vua Giạt-mút, Gia-phia, vua La-ki và Đê-bia, vua Éc-lôn rằng: “Các vua hãy lên giúp ta tấn công Ga-ba-ôn vì họ đã cầu hòa với Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên.” Vậy, năm vua người A-mô-rít, tức là các vua Giê-ru-sa-lem, Hếp-rôn, Giạt-mút, La-ki, và Éc-lôn, liên minh quân sự với nhau, đem toàn lực kéo lên dàn quân và tấn công Ga-ba-ôn.
Người Ga-ba-ôn bèn sai người báo tin cho Giô-suê tại trại quân Ghinh-ganh: “Xin ông đừng bỏ mặc đầy tớ ông! Xin hãy nhanh chóng lên đây giải cứu chúng tôi! Xin cứu giúp chúng tôi vì tất cả các vua dân A-mô-rít trong vùng đồi núi đã liên minh tiến đánh chúng tôi.”
Vậy, Giô-suê đem toàn thể quân đội gồm tất cả các chiến sĩ tinh nhuệ nhất, từ Ghinh-ganh kéo lên. CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con đừng sợ chúng nó; Ta đã giao nạp chúng nó vào tay con. Không ai trong chúng nó chống lại con được đâu.”
Sau khi xuất phát từ Ghinh-ganh, Giô-suê đi suốt đêm bất ngờ tấn công quân địch. CHÚA khiến hàng ngũ quân địch rối loạn trước mặt quân đội Y-sơ-ra-ên. Họ đại thắng quân thù ở Ga-ba-ôn. Quân Y-sơ-ra-ên rượt đuổi quân thù suốt dọc đường đi lên Bết Hô-rôn và đánh tan địch cho đến tận A-xê-ka và Ma-kê-đa. Khi quân địch chạy trốn trước mặt quân Y-sơ-ra-ên trên con đường xuống dốc từ Bết Hô-rôn đến A-xê-ka, CHÚA khiến mưa đá lớn từ trời sa xuống và quân địch chết vì mưa đá còn nhiều hơn số người bị quân Y-sơ-ra-ên dùng gươm giết chết.
Trong ngày CHÚA giao nạp dân A-mô-rít trong tay Y-sơ-ra-ên, Giô-suê thưa với CHÚA trước mặt dân Y-sơ-ra-ên:
“Mặt trời hỡi, hãy đứng yên trên Ga-ba-ôn
Mặt trăng hỡi, hãy dừng chân trên trũng A-gia-lôn.”
Vậy, mặt trời đứng yên
Và mặt trăng dừng lại
Cho đến khi dân chúng đã báo thù quân địch,
đó là điều sách Gia-sa đã ghi. Mặt trời đứng yên giữa bầu trời, không vội lặn gần trọn một ngày.
Trước nay chưa bao giờ có một ngày như thế và mãi về sau cũng chẳng bao giờ có nữa, là ngày CHÚA nhậm lời của một con người. Thật CHÚA đã chiến đấu cho Y-sơ-ra-ên.
Rồi Giô-suê cùng toàn quân quay về trại quân tại Ghinh-ganh.
Năm Vua Dân A-mô-rít Bị Giết
Lúc ấy, năm vua đã trốn thoát và ẩn náu trong một hang đá tại Ma-kê-đa. Khi Giô-suê được báo cáo rằng người ta đã tìm thấy năm vua trốn trong hang đá Ma-kê-đa, ông ra lệnh: “Hãy lăn đá lớn lấp miệng hang đá và cắt đặt người canh gác. Nhưng cứ tiến quân, đừng dừng bước! Hãy đuổi theo quân địch, tấn công chúng từ phía sau. Đừng để chúng chạy trước về các thành của chúng, vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã giao nạp chúng nó vào tay các ngươi.”
Vậy, Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên đánh giết quân địch rất nhiều đến nỗi gần như tuyệt diệt họ. Số ít người còn sống sót trốn về các thành kiên cố của họ. Toàn quân Y-sơ-ra-ên an toàn quay về với Giô-suê tại trại quân Ma-kê-đa. Không một ai dám mở miệng nói nghịch lại dân Y-sơ-ra-ên nữa.
Giô-suê ra lệnh: “Hãy mở miệng hang đá, đem năm vua ấy cho ta.” Vậy, họ điệu năm vua ra khỏi hang đá, tức là các vua Giê-ru-sa-lem, Hếp-rôn, Giạt-mút, La-ki và Éc-lôn. Thấy các vua bị điệu đến trước mặt mình, Giô-suê triệu tập tất cả nam đinh Y-sơ-ra-ên và ra lệnh cho các cấp chỉ huy quân đội đã theo mình: “Hãy đến đạp chân lên cổ các vua này!” Vậy, họ tiến lên đạp chân trên cổ các vua.
Giô-suê bảo họ: “Đừng sợ, đừng nản lòng! Hãy mạnh dạn và can đảm lên! Đây chính là điều CHÚA sẽ làm cho tất cả các quân địch mà các ngươi sắp chiến đấu.” Giô-suê bèn đánh giết các vua ấy rồi treo xác họ trên năm thân cây; họ bị treo trên cây cho đến chiều tối.
Đến hoàng hôn, Giô-suê ra lệnh cho người ta đem xác các vua trên cây xuống và ném vào trong hang đá họ đã ẩn náu. Nơi miệng hang, người ta chất các tảng đá lớn, vẫn còn cho đến ngày nay.
Hôm ấy, Giô-suê chiếm đóng Ma-kê-đa, dùng gươm giết vua và tận diệt mọi người trong thành, không để một ai sống sót. Ông cũng đối xử với vua Ma-kê-đa như đã đối xử với vua Giê-ri-cô.
Chiếm Đóng Các Thành Phương Nam
Rồi toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông từ Ma-kê-đa qua Líp-na để tấn công thành này. CHÚA cũng giao thành và vua ấy vào tay dân Y-sơ-ra-ên. Giô-suê dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành, không để một ai sống sót. Ông đối xử với vua Líp-na như đã đối xử với vua Giê-ri-cô.
Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông tiến quân từ Líp-na qua La-ki, và bố trí để tấn công thành. CHÚA giao nạp La-ki vào tay Y-sơ-ra-ên. Ngày thứ nhì Giô-suê chiếm đóng thành và dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành này như đã làm cho Líp-na. Trong khi đó, Hô-ram, vua Ghê-xe, đem quân đến cứu La-ki, nhưng Giô-suê đánh bại vua và quân đội của vua cho đến khi không còn một người nào sống sót.
Rồi Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông từ La-ki tiến qua Éc-lôn và bố trí để tấn công thành này. Họ chiếm được thành này ngay hôm ấy và dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành như họ đã làm cho La-ki.
Giô-suê và toàn dân theo ông từ Éc-lôn qua Hếp-rôn để tấn công thành này. Họ chiếm thành và dùng gươm tiêu diệt mọi người trong thành và các làng phụ cận luôn với vua của chúng, không để một ai sống sót. Họ tận diệt mọi người trong thành này như họ đã làm tại Éc-lôn.
Giô-suê và toàn dân Y-sơ-ra-ên theo ông đều quay lại tấn công Đê-bia. Họ chiếm thành và dùng gươm tiêu diệt dân cư trong thành và các làng phụ cận cùng với vua của chúng. Họ tận diệt mọi người trong đó không để một ai sống sót. Họ đối xử với Đê-bia và vua nó như đã đối xử với Hếp-rôn, Líp-na và vua nó.
Vậy, Giô-suê bắt phục cả vùng lãnh thổ từ miền đồi núi, miền nam, miền chân đồi phía tây và các triền núi luôn với các vua của các xứ này; không để một ai sống sót, tất cả các sinh vật trong đó đều bị ông tận diệt đúng theo lệnh CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã ban hành. Giô-suê bình trị các vùng từ Ca-đê Ba-nê-a đến Ga-xa và từ cả vùng Gô-sen cho đến Ga-ba-ôn. Tất cả các vua và đất nước họ đều bị Giô-suê đánh bại trong một chiến dịch vì CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, đã chiến đấu cho Y-sơ-ra-ên.
Rồi Giô-suê cùng toàn dân Y-sơ-ra-ên quay lại trại quân ở Ghinh-ganh.
Các Vua Phương Bắc Bị Thất Trận
Khi nghe tin này, Gia-bin, vua Hát-so, sai người đến tâu với Giô-báp, vua Ma-đôn, các vua của Sim-rôn và Ạc-sáp, với các vua ở phương bắc trên núi, trong đồng bằng miền nam Ki-nê-rết, trong miền chân núi phía tây và tại vùng cao nguyên Đô-rơ về phía tây; dân Ca-na-an về phía đông và phía tây, dân A-mô-rít, dân Hê-tít, dân Phê-rê-sít và dân Giê-bu-sít trong miền đồi núi; cùng dân Hê-vít dưới chân núi Hẹt-môn, trong vùng Mích-ba. Các vua này xuất quân toàn lực, đem theo nhiều xe và ngựa với một đạo quân đông như cát biển. Tất cả các vua ấy hẹn nhau đem quân đóng trại chung gần hồ Mê-rôm để tuyên chiến với dân Y-sơ-ra-ên.
Nhưng CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con đừng sợ chúng nó, vì ngày mai độ vào giờ này, Ta sẽ nạp thây của tất cả chúng nó cho Y-sơ-ra-ên. Con phải cắt nhượng ngựa và đốt xe chúng nó.”
Vậy, Giô-suê và toàn thể quân đội ông bất ngờ tấn công quân địch gần hồ nước Mê-rôm, và đột kích chúng nó. CHÚA giao nạp chúng nó vào tay Y-sơ-ra-ên. Họ đánh bại và rượt đuổi chúng suốt cả đường cho đến tận vùng Si-đôn nới rộng, Mít-rê-phốt Ma-im và tận trũng Mích-ba ở phía đông, không để một ai sống sót. Giô-suê đối xử với chúng nó như CHÚA đã phán dặn: ông cắt nhượng ngựa và đốt xe của họ.
Lúc ấy, Giô-suê quay lại chiếm đóng Hát-so và dùng gươm giết vua của Hát-so (Hát-so vốn cầm đầu các vương quốc ấy). Dân Y-sơ-ra-ên dùng gươm giết sạch mọi người trong thành; tiêu diệt hoàn toàn các loài sinh vật có hơi thở. Giô-suê đốt rụi thành Hát-so.
Giô-suê chiếm tất cả các thành thủ đô các vương quốc này, bắt các vua và dùng gươm giết sạch. Ông tiêu diệt chúng hoàn toàn như Môi-se, tôi tớ của CHÚA, đã truyền bảo. Tuy nhiên, dân Y-sơ-ra-ên không đốt thành nào xây trên các ngọn đồi ngoại trừ Hát-so mà Giô-suê đã đốt. Dân Y-sơ-ra-ên mang đi tất cả các chiến lợi phẩm và gia súc trong các thành đó, nhưng lại dùng gươm giết sạch dân cư không chừa lại một sinh vật nào. Mệnh lệnh CHÚA đã truyền cho Môi-se, tôi tớ Ngài, thì Môi-se truyền lại cho Giô-suê, và Giô-suê thực thi tất cả mệnh lệnh CHÚA đã phán dạy Môi-se, không bỏ sót điều gì.
Vậy, Giô-suê chiếm toàn thể đất nước này: miền đồi núi, tất cả miền nam bộ, toàn thể vùng Gô-sen, các khu chân núi miền tây, miền A-ra-ba và các rặng núi của Y-sơ-ra-ên với miền chân núi, từ núi Ha-lát nổi cao lên về hướng Sê-i-rơ, cho đến Ba-anh Gát trong thung lũng Li-ban dưới chân núi Hẹt-môn, ông bắt tất cả các vua của họ và đánh giết đi. Giô-suê chiến tranh với các vua ấy suốt một thời gian dài. Không có một dân nào sống tại Ga-ba-ôn lập hòa ước với dân Y-sơ-ra-ên chỉ có dân Hê-vít. Dân Y-sơ-ra-ên phải đánh trận mới bắt được họ. Vì chính CHÚA làm cho lòng dạ các vua ấy ngoan cố mà tuyên chiến với dân Y-sơ-ra-ên, ngõ hầu có thể tiêu diệt họ hoàn toàn và quét sạch chúng nó không thương xót, như CHÚA đã truyền dạy Môi-se.
Lúc ấy, Giô-suê đi tiêu diệt dân A-na-kim trên miền đồi núi: từ Hếp-rôn, Đê-bia và A-náp, từ cả miền đồi núi Giu-đa cho đến cả miền đồi núi Y-sơ-ra-ên. Giô-suê hoàn toàn tiêu diệt họ và thành của họ. Trong khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên không còn một người A-na-kim nào, ngoại trừ Ga-xa, Gát và Ách-đốt là nơi có người khổng lồ sống sót. Vậy, Giô-suê chiếm toàn bộ đất nước này đúng như CHÚA đã chỉ thị cho Môi-se. Ông cấp đất đai cho dân Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp tùy theo gia tộc, tông bộ tộc.
Lúc ấy, đất nước mới được hưởng thái bình và nghỉ ngơi.
Danh Sách Các Vua Thất Trận
Đây là danh sách các vua trong xứ mà dân Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng và chiếm lấy đất đai của họ phía đông sông Giô-đanh, từ suối Ạt-nôn đến núi Hẹt-môn với cả đồng bằng về phía đông A-ra-rát.
Si-hôn, vua dân A-mô-rít ở Hết-bôn, vốn cai trị từ A-rô-e bên bờ suối Ạt-nôn và từ giữa dòng suối cho đến suối Gia-bốc, là biên giới Am-môn; là một nửa Ga-la-át, với cả miền đồng bằng cho đến biển Ki-nê-rết phía đông đến tận biển đồng bằng tức là Biển Mặn phía đông hướng Bết Giê-si-mốt; cùng cả miền nam dưới chân núi Phích-ga.
Óc, vua Ba-san là người cuối cùng của dân Rê-pha-im ở tại Ách-ta-rốt và Ếch-rê-i. Lãnh thổ vua này gồm núi Hẹt-môn, miền Sanh-ca, và cả xứ Ba-san đến tận biên giới dân Ghê-su-rít và dân Ma-ca-thít, cùng đến nửa xứ Ga-la-át là biên giới của Hết-bôn, do vua Si-hôn cai trị.
Môi-se, đầy tớ của CHÚA, và dân Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng họ; rồi Môi-se, đầy tớ của CHÚA, chia cấp lãnh thổ họ cho người Ru-bên, người Gát, và phân nửa bộ tộc Ma-na-se làm cơ nghiệp.
Đây là danh sách các vua trong xứ mà Giô-suê và dân Y-sơ-ra-ên đã chiến thắng phía tây sông Giô-đanh, từ Ba-anh Gát trong thung lũng Li-ban đến tận núi Ha-lát lên cao về hướng Sê-i-rơ (Giô-suê cấp lãnh thổ họ làm sản nghiệp cho các bộ tộc Y-sơ-ra-ên theo từng gia tộc, miền đồi núi, miền chân núi phía tây, miền A-ra-ba, các triền núi, miền đồng hoang và miền nam bộ, tức là lãnh thổ của dân Hê-tít, dân A-mô-rít, dân Ca-na-an, dân Phê-rê-sít, dân Hê-vít, và dân Giê-bu-sít):
Vua Giê-ri-cô
Vua A-hi (gần Bê-tên)
Vua Giê-ru-sa-lem
Vua Hếp-rôn
Vua Giạt-mút
Vua La-ki
Vua Éc-lôn
Vua Ghê-xe
Vua Đê-bia
Vua Ghê-đe
Vua Họt-ma
Vua A-rát
Vua Líp-na
Vua A-đu-lam
Vua Ma-kê-đa
Vua Bê-tên
Vua Tháp-bu-ách
Vua Hê-phê
Vua A-phéc
Vua Sa-rôn
Vua Ma-đôn
Vua Hát-so
Vua Sim-rôn Mê-rôn
Vua Ạc-sáp
Vua Tha-a-nác
Vua Mê-ghi-đô
Vua Kê-đe
Vua Giốc-kê-am ở núi Cạt-mên
Vua Đô-rơ ở cao nguyên Đô-rơ
Vua Gô-im ở Ghinh-ganh
Và Vua Thiệt-sa
Tổng Cộng tất cả là ba mươi mốt vua.
Các Vùng Đất Chưa Chiếm Đóng
Khi Giô-suê tuổi cao tác lớn, CHÚA phán bảo ông: “Con đã già, lãnh thổ cần phải chiếm đóng còn rất rộng.
Đây là lãnh thổ còn lại: tất cả các vùng đất của người Phi-li-tin và người Ghê-su-rít; từ sông Si-cô phía đông Ai-cập cho đến lãnh thổ Éc-rôn phía bắc, tất cả được kể là xứ của người Ca-na-an (lãnh thổ của năm lãnh chúa Phi-li-tin tại Ga-xa, Ách-đốt, Ách-ca-lôn, Gát, và Éc-rôn), và lãnh chúa dân A-vít; về phía nam, tất cả lãnh thổ của người Ca-na-an từ A-ra của dân Si-đôn đến A-phéc là vùng đất của dân A-mô-rít, địa phận của Ghi-bê-lít, và cả miền Li-ban về phía đông, từ Ba-anh Gát dưới chân núi Hẹt-môn cho đến Lê-bô Ha-mát.
Còn tất cả dân cư vùng núi từ Li-ban đến Mít-rê-phốt Ma-im tức là tất cả dân Si-đôn. Chính Ta sẽ đánh đuổi chúng nó trước mặt Y-sơ-ra-ên. Con hãy cấp đất này cho dân Y-sơ-ra-ên làm cơ nghiệp như Ta đã chỉ thị cho con, và phân chia đất ấy làm cơ nghiệp cho chín bộ tộc và phân nửa bộ tộc Ma-na-se.”
Chia Đất Tại Đông Bộ Sông Giô-đanh
Phân nửa bộ tộc Ma-na-se kia cùng người Ru-bên và người Gát đã nhận cơ nghiệp mà Môi-se, đầy tớ CHÚA, đã cấp cho họ phía đông sông Giô-đanh.
Lãnh thổ họ trải dài tận A-rô-e (giáp ranh thung lũng Ạt-nôn) và thành ở giữa thung lũng ấy, gồm luôn cả cao nguyên từ Mê-đê-ba đến Đi-bôn. Và tất cả các thành của Si-hôn, vua A-mô-rít, từng cai trị tại Hết-bôn đến tận biên giới dân Am-môn. Vùng đất ấy bao gồm xứ Ga-la-át, lãnh thổ Ghê-su-rơ và Ma-a-ca, toàn bộ núi Hẹt-môn và cả xứ Ba-san đến tận Sa-lê-ca, tức là cả vương quốc của Óc, vua Ba-san, người Rê-pha-im cuối cùng, đã cai trị tại Ách-ta-rốt và Ết-rê-i. Môi-se đã chiến thắng họ và chiếm đất nước họ. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên không đuổi được dân Ghê-ru-sơ và Ma-a-ca nên họ tiếp tục sống với người Y-sơ-ra-ên cho đến ngày nay.
Nhưng Môi-se không cấp cơ nghiệp nào cho bộ tộc Lê-vi vì các lễ vật dùng lửa dâng lên cho CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, là cơ nghiệp của họ như Ngài đã hứa với họ.
Đây là phần Môi-se đã cấp cho bộ tộc Ru-bên, từng gia tộc:
Lãnh thổ từ A-rô-e giáp ranh thung lũng Ạt-nôn và từ thành giữa thung lũng ấy, đến cả cao nguyên vượt qua Mê-đê-ba đến Hết-bôn và tất cả các thành trên cao nguyên gồm cả Đi-bôn, Ba-mốt Ba-anh, Bết Ba-anh Mê-ôn, Gia-hát, Kê-đê-mốt, Mê-phát, Ki-ri-a-tha-im, Síp-ma, Xê-rết Sa-ha trên ngọn đồi trong thung lũng, Bết Phê-ô, các triền núi Phích-ga, Bết Giê-si-mốt, tất cả các thành trên cao nguyên và toàn bộ vương quốc của Si-hôn, vua A-mô-rít, từng cai trị tại Hết-bôn. Môi-se đã chiến thắng vua này và các vương hầu Ma-đi-an đang sống trong xứ và liên minh với vua Si-hôn là Ê-vi, Rê-kem, Xu-rơ, Hu-rơ, và Rê-ba. Ngoài những kẻ bị giết trên chiến trường, người Y-sơ-ra-ên còn dùng gươm xử tử Ba-la-am, con trai Bê-ô, là người thuật sĩ bói khoa. Ranh giới của người Ru-bên là bờ sông Giô-đanh. Các thành này và các làng phụ cận đều là cơ nghiệp của người Ru-bên theo từng gia tộc.
Đây là phần Môi-se cấp cho bộ tộc Gát, theo từng gia tộc:
Lãnh thổ Gia-ê-xe, tất cả các thành trong xứ Ga-la-át, và phân nửa xứ Am-môn, đến tận A-rô-e, gần Ráp-ba; từ Hết-bôn đến Ra-mát Mích-ba và Bê-tô-nim, và từ Ma-ha-na-im đến lãnh thổ Đê-bia; trong thung lũng: Bết Ha-ram, Bết Nim-ra, Su-cốt, và Xa-phôn với phần còn lại trong vương quốc của Si-hôn, vua Hết-bôn (phía đông sông Giô-đanh, lãnh thổ chạy dài đến cuối biển Ki-nê-rết). Các thành và các làng này là cơ nghiệp của người Gát, theo từng gia tộc.
Đây là phần Môi-se cấp cho phân nửa bộ tộc Ma-na-se theo từng gia tộc (tức là phân nửa bộ tộc gồm dòng dõi của Ma-na-se):
Lãnh thổ chạy từ Ma-ha-na-im, toàn bộ xứ Ba-san, các vương quốc của Óc, vua Ba-san, và các khu định cư của Giai-rơ tại Ba-san, sáu mươi thành, phân nửa xứ Ga-la-át, Ách-ta-rốt và Ết-rê-i (tức là các đô thành của Óc trong xứ Ba-san). Đó là phần cấp cho dòng dõi của Ma-ki, con trai Ma-na-se, tức là phân nửa các con trai của Ma-ki, theo từng gia tộc.
Đó là cơ nghiệp Môi-se đã ban phát khi còn ở trong đồng bằng Mô-áp đối ngang sông Giô-đanh ở phía đông Giê-ri-cô. Nhưng Môi-se không cấp cơ nghiệp nào cho bộ tộc Lê-vi; CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên là cơ nghiệp của họ như Ngài đã phán hứa.
Chia Đất Phía Tây Sông Giô-đanh
Đây là địa phận mà dân Y-sơ-ra-ên nhận làm cơ nghiệp trong đất Ca-na-an, theo sự phân chia của thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai Nun, và các trưởng bộ tộc Y-sơ-ra-ên. Họ bắt thăm chia đất cho chín bộ tộc rưỡi như CHÚA đã dùng Môi-se truyền bảo. Môi-se đã cấp cơ nghiệp cho hai bộ tộc rưỡi tại phía đông sông Giô-đanh nhưng không cấp cơ nghiệp nào cho người Lê-vi cả, vì dòng dõi của Giô-sép đã trở thành hai bộ tộc là Ma-na-se và Ép-ra-im. Người Lê-vi không nhận được phần đất nào nhưng chỉ được các thành để cư trú và các đồng cỏ cho bày bò bày chiên của họ. Vậy, dân Y-sơ-ra-ên chia đất đúng như CHÚA đã truyền bảo Môi-se.
Ca-lép Được Đất Hếp-rôn
Lúc ấy, người Giu-đa đến gần Giô-suê tại Ghinh-ganh, và Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít nói: “Ông biết điều CHÚA đã phán về tôi và về ông qua Môi-se, người của Đức Chúa Trời, tại Ca-đê Ba-nê-a. Khi Môi-se, đầy tớ của CHÚA, ở Ca-đê Ba-nê-a sai tôi đi thám sát đất nước này, tôi được bốn mươi tuổi. Tôi trở về báo cáo cách trung thực đúng theo lòng tôi, nhưng các anh em tôi là những người cùng đi với tôi đã làm cho lòng dân rã rời chán nản. Tuy nhiên, tôi đã hết lòng theo CHÚA, là Đức Chúa Trời tôi. Hôm ấy, Môi-se đã thề với tôi: ‘Vùng đất nào bàn chân ngươi đạp đến sẽ là cơ nghiệp của ngươi và con cháu ngươi đời đời, vì ngươi đã hết lòng theo CHÚA là Đức Chúa Trời ta.’
Đúng như lời CHÚA đã phán hứa, Ngài đã gìn giữ tôi còn sống suốt bốn mươi lăm năm từ lúc Ngài phán dạy Môi-se điều ấy suốt thời gian Y-sơ-ra-ên lưu lạc trong sa mạc; CHÚA đã bảo tồn mạng sống tôi cho đến bây giờ, và ngày nay tôi được tám mươi lăm tuổi. Ngày nay tôi vẫn còn mạnh khỏe như ngày Môi-se sai tôi ra đi; tôi vẫn còn tràn đầy sinh lực xung phong ra trận như ngày trước. Bây giờ xin ông cấp cho tôi xứ đầy đồi núi này mà CHÚA đã hứa ban cho tôi hôm ấy. Chính ông đã nghe báo cáo rằng dân khổng lồ A-na-kim vẫn còn ở đó, và các thành của họ đều rộng lớn và kiên cố, nhưng nhờ CHÚA giúp đỡ, tôi sẽ đánh đuổi chúng ra như Ngài đã phán.” Giô-suê bèn chúc phước cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, và cấp cho ông miền Hếp-rôn làm cơ nghiệp. Vậy, Hếp-rôn thuộc quyền sở hữu của Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, người Kê-nít, từ đó đến nay, vì người đã hết lòng theo CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên. (Hếp-rôn vốn được gọi là Ki-ri-át A-ra-ba, theo tên của A-ra-ba, là người khổng lồ nổi danh nhất trong vòng người A-na-kim).
Từ đó, đất nước được thái bình, không còn chiến tranh.
Chia Đất Cho Giu-đa
Phần đất chia cho bộ tộc Giu-đa theo từng gia tộc, trải dài đến lãnh thổ Ê-đôm và tận sa mạc Xin ở miền cực nam.
Địa giới miền nam bắt đầu từ vịnh ở phía nam, cuối Biển Mặn, vượt qua phía nam đèo Bò-cạp, thẳng đến Xin, vòng lên phía nam Ca-đê Ba-nê-a, đi ngang Hết-rôn lên đến A-đa, vòng quanh Cát-ca, chạy dọc Át-môn, đổ vào suối Ai-cập rồi chấm dứt ở bờ biển. Đây là địa giới phía nam.
Địa giới phía đông là Biển Mặn cho đến vàm sông Giô-đanh.
Địa giới phía bắc khởi từ vịnh Biển Mặn ở vàm sông Giô-đanh, lên Bết Hốt-la, đi về phía bắc Bết A-ra-ba đến tảng đá Bô-han (tên con trai của Ru-bên). Đến đây, địa giới lên Đê-bia, từ thung lũng A-cô quay về hướng bắc đến Ghinh-ganh, đối ngang đèo A-đu-mim phía nam dòng suối; chạy dọc theo mé nước Ên-sê-mết, giáp Ên-rô-ghên; từ đó chạy lên thung lũng Bên Hi-nôm, dọc theo triền núi trên thành Giê-bu (tức là Giê-ru-sa-lem); leo lên đỉnh đồi phía tây thung lũng Hi-nôm tại điểm cuối phía bắc của thung lũng Rê-pha-im. Từ đỉnh đồi, địa giới hướng về suối nước Nép-thô-ách, giáp các thành trên núi Ếp-rôn rồi xuống hướng Ba-la (tức là Ki-ri-át Giê-a-rim); từ Ba-la vòng qua hướng tây đến núi Sê-i-rơ, chạy dọc triền phía bắc ngọn núi Giê-a-rim (tức là Kê-sa-lôn), xuống thẳng tới Bết Sê-mết và vượt qua Thim-na. Địa giới chạy về triền núi phía bắc của Éc-rôn, quay về phía Siếc-rôn, đi dọc theo núi Ba-la đến tận Giáp-nê-ên rồi giáp biển.
Địa giới phía tây là bờ Biển Lớn.
Đó là địa giới bao quanh đất của người Giu-đa, theo từng gia tộc.
Theo lệnh CHÚA, Giô-suê cấp cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, một phần đất giữa người Giu-đa: Ki-ri-át A-ra-ba tức là Hếp-rôn (A-ra-ba là tổ phụ của A-nác). Ca-lép đánh đuổi ra khỏi Hếp-rôn ba người khổng lồ A-na-kim là Sê-nai, A-hi-man và Thanh-mai đều là con của A-nác. Từ đó, ông lên đánh dân thành Đê-bia (trước kia gọi là Ki-ri-át Sê-phe). Ca-lép nói: “Ta sẽ gả Ạc-sa, con gái ta, cho người nào tấn công và chiếm được Ki-ri-át Sê-phe.” Ốt-ni-ên, con trai Kê-na (Kê-na là em Ca-lép), chiếm được thành nên Ca-lép gả Ạc-sa, con gái mình, cho Ốt-ni-ên làm vợ.
Khi về nhà Ốt-ni-ên, nàng thúc giục chồng xin cha mình cho một đám ruộng. Khi nàng xuống lừa, Ca-lép hỏi: “Con muốn cha giúp con điều chi?” Nàng thưa: “Xin cha cho con một ân huệ. Vì cha đã cho con đất ở miền nam nên xin cha cũng cho con luôn các suối nước.” Vậy, Ca-lép cho nàng các dòng suối trên và dưới.
Đây là cơ nghiệp của bộ tộc Giu-đa theo từng gia tộc:
Các thành cực nam đất Giu-đa giáp ranh Ê-đôm tại nam bộ là:
Cáp-sê-ên, Ê-đê, Gia-gua, Ki-na, Đi-mô-na, A-đê-a-đa, Kê-đe, Hát-so, Gít-nan, Xíp, Tê-lem, Bê-a-lốt, Hát-so Ha-đa-tha, Kê-ri-giốt Hết-rôn (tức là Hát-so), A-mam, Sê-ma, Mô-la-đa, Hát-sa-ga-đa, Hết-môn, Bết Pha-lê, Hát-sa Su-anh, Bê-e Sê-ba, Bi-sốt-gia, Ba-la, Y-đim, Ê-xem, Ê-thô-lát, Kê-sinh, Họt-ma, Xiếc-lác, Mát-ma-na, San-sa-na, Lê-ba-ốt, Si-lim, A-in, và Rim-môn: cộng lại là hai mươi chín thành với các làng phụ cận.
Tại miền chân núi phía tây:
Ết-tha-ôn, Xô-rê-a, Át-na, Xa-nô-ách, Ên Ga-nim, Tháp-bu-ách, Ê-nam, Giạt-mút, A-đu-lam, Sô-cô, A-xê-ka, Sa-a-ra-im, A-đi-tha-im, Ghê-đê-ra và Ghê-đê-rô-tha-im: cộng lại là mười bốn thành với các làng phụ cận.
Xê-nan, Ha-đa-sa, Mích-đanh Gát, Đi-lan, Mít-bê, Giốc-thê-ên, La-ki, Bốt-cát, Éc-lôn, Cáp-bôn, Lách-ma, Kít-lít, Ghê-đê-rốt, Bết Đa-gôn, Na-a-ma và Ma-kê-đa: cộng lại là mười sáu thành với các làng phụ cận.
Líp-na, Ê-the, A-san, Díp-tách, Át-na, Nết-síp, Kê-i-la, Ạc-xíp, và Ma-rê-sa: cộng lại là chín thành với các làng phụ cận.
Éc-rôn với các khu định cư và các làng quanh thành; phía tây Éc-rôn, tất cả lãnh thổ quanh vùng Ách-đốt với các làng phụ cận; Ách-đốt với các khu định cư và các làng quanh thành; Ga-xa với các khu định cư và các làng của nó, đến tận dòng suối Ai-cập và bờ Biển Lớn.
Trong vùng đồi núi:
Sa-mia, Giạt-thia, Sô-cô, Đa-na, Ki-ri-át Sa-na (tức là Đê-bia), A-náp, Ết-thê-mô, A-nim, Gô-sen, Hô-lôn, Ghi-lô: cộng lại là mười một thành với các làng phụ cận.
A-ráp, Ru-ma, Ê-sê-an, Gia-num, Bết Tháp-bu-ách, A-phê-ca, Hum-ta, Ki-ri-át A-ra-ba (tức là Hếp-rôn), và Si-lô: cộng lại là chín thành với các làng phụ cận.
Ma-ôn, Cạt-mên, Xíp, Gia-ta, Gít-rê-ên, Giốc-đê-am, Xa-nô-ách, Ca-in, Ghi-bê-a và Thim-na: cộng lại là mười thành với các làng phụ cận.
Hanh-hun, Bết Xu-rơ, Ghê-đô, Ma-a-rát, Bết A-nốt và Ên-thê-côn: cộng lại là sáu thành với các làng phụ cận.
Ki-ri-át Ba-anh, tức là Ki-ri-át, Giê-a-rim và Ráp-ba: cộng lại là hai thành với các làng phụ cận.
Trong sa mạc:
Bết A-ra-ba, Mi-đin, Sê-ca-ca, Níp-san, Yết Ha-mê-lách và Ên-ghê-đi: cộng lại là sáu thành với các làng phụ cận.
Người Giu-đa không trục xuất được dân Giê-bu-sít đang ở tại Giê-ru-sa-lem nên người Giê-bu-sít sống chung với người Giu-đa cho đến ngày nay.
Chia Đất Cho Ép-ra-im Và Ma-na-se
Phần đất dành cho Giô-sép bắt đầu trên bờ sông Giô-đanh tại Giê-ri-cô, phía đông các dòng suối Giê-ri-cô. Ranh giới từ đó chạy lên qua sa mạc đến miền đồi núi Bê-tên: từ Bê-tên (tức Lu-xơ) vượt qua lãnh thổ của người A-kít tại A-ta-rốt; xuống phía tây đến lãnh thổ của người Giáp-lê-tít và tận vùng Bết Hô-rôn hạ đến Ghê-xe và chấm dứt tại bờ biển.
Vậy, Ma-na-se và Ép-ra-im, con cháu Giô-sép, lãnh cơ nghiệp của họ.
Đây là lãnh thổ của Ép-ra-im, theo từng gia tộc:
Ranh giới cơ nghiệp họ khởi từ A-ta-rốt A-đa ở phía đông đến Bết Hô-rôn thượng, và ra đến biển. Từ Mít-mê-tha ở phía bắc ranh giới vòng qua hướng đông đến Tha-a-nác Si-lô đi ngang thành ấy mà đến Gia-nô-ách ở phía đông; rồi từ Gia-nô-ách xuống A-ta-rốt và Na-a-ra, giáp Giê-ri-cô và ra sông Giô-đanh. Từ Tháp-bu-ách, ranh giới đi về hướng tây đến rạch Ca-na rồi chấm dứt tại bờ biển. Đó là cơ nghiệp của bộ tộc Ép-ra-im, theo từng gia tộc. Con cháu Ép-ra-im cũng có các thành và làng riêng giữa cơ nghiệp của con cháu Ma-na-se.
Nhưng họ không trục xuất được dân Ca-na-an ở Ghê-xe, nên dân Ca-na-an sống giữa người Ép-ra-im cho đến ngày nay, nhưng buộc phải làm lao công cưỡng bách.
Chia Đất Cho Chi Tộc Ma-na-se
Đây là phần chia cho bộ tộc của Ma-na-se, trưởng nam của Giô-sép, tức là phần của Ma-ki, trưởng nam của Ma-na-se. Ma-ki là tổ phụ của người Ga-la-át vì họ là chiến sĩ dũng cảm nên được nhận đất Ga-la-át và Ba-san. Người ta cũng chia đất cho các con khác của Ma-na-se, theo từng gia tộc: gia tộc A-bi-ê-se, Hê-léc, Át-ri-ên, Si-chem, Hê-phê và Sê-mi-đa. Đó là tên các con trai của Ma-na-se, cháu Giô-sép, tùy theo gia tộc.
Xê-lô-phát con Hê-phê, cháu Ga-la-át, chắt Ma-ki và chít Ma-na-se, chỉ sinh con gái không có con trai, các cô ấy tên là Mách-la, Nô-a, Hốt-la, Minh-ca và Thiệt-sa. Các cô này đến gặp thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai của Nun và các nhà lãnh đạo mà thưa: “CHÚA đã truyền lệnh cho Môi-se phải cho chúng tôi cơ nghiệp ở giữa anh em chúng tôi” nên Giô-suê chia cơ nghiệp cho họ giữa vòng anh em họ như CHÚA truyền. Ma-na-se được mười phần đất chưa kể Ga-la-át và Ba-san ở phía đông sông Giô-đanh. Vì các con gái trong bộ tộc Ma-na-se được cơ nghiệp ở giữa các con trai người, nên xứ Ga-la-át thuộc quyền sở hữu của các hậu tự khác của Ma-na-se.
Lãnh thổ của Ma-na-se bắt đầu từ lãnh thổ của bộ tộc A-se đến Mít-mê-tha phía đông Si-chem. Từ đó ranh giới chạy về phía nam bao gồm dân ở bên Tháp-bu-ách. Đất Tháp-bu-ách thuộc về Ma-na-se, nhưng thành Tháp-bu-ách trên ranh giới lại thuộc về người Ép-ra-im. Từ đó ranh giới chạy về phía nam khe Ca-na. Có những thành gần các thành phố Ma-na-se nhưng lại thuộc về thành Ép-ra-im ranh giới của Ma-na-se nằm phía bắc khe và chấm dứt ở bờ biển. Lãnh thổ phía nam khe thuộc về Ép-ra-im còn phía bắc thuộc về Ma-na-se chạy dài đến tận biển và giáp ranh với A-se phía bắc và Y-sa-ca phía đông.
Giữa đất Y-sa-ca và A-se, Ma-na-se cũng được Bết Sê-an, Gíp-lê-am, dân chúng Đô-rơ, Ên Đô-rơ, Tha-na-át và Mê-ghi-đô cùng với các khu định cư quanh các thành ấy (Na-phốt, là khu thứ ba trong bảng liệt kê).
Tuy nhiên, người Ma-na-se không chiếm đóng các thành ấy vì dân Ca-na-an quyết định tiếp tục sống trong vùng này. Nhưng dân Y-sơ-ra-ên ngày càng mạnh nên bắt dân Ca-na-an phải lao công phục vụ, song chẳng đuổi họ được hết.
Dòng dõi của Giô-sép thưa với Giô-suê: “Tại sao ông chỉ chia cho chúng tôi một phần và một khoảnh đất làm sản nghiệp? Dân số chúng tôi đông vì CHÚA đã ban phước dồi dào cho chúng tôi.”
Giô-suê đáp: “Nếu dân các ngươi đông như thế và nếu vùng đồi núi của Ép-ra-im quá nhỏ hẹp cho các ngươi, hãy đi lên vùng rừng rậm trên cao và khai hoang đất cho mình trong xứ của người Phê-rê-sít và người Rê-pha-im.”
Nhưng dòng dõi Giô-sép đáp: “Vùng đồi núi không đủ chỗ cho chúng tôi còn vùng đồng bằng thì tất cả dân Ca-na-an đều có chiến xa bằng sắt, kể cả dân Bết Sê-an và các khu định cư của họ cũng như dân trong trũng Gít-rê-ên.”
Giô-suê bảo nhà Giô-sép tức là Ép-ra-im và Ma-na-se: “Các ngươi có dân đông và rất cường thịnh nên không phải chỉ lãnh một phần đất mà thôi, nhưng cả vùng đồi núi cũng thuộc về các ngươi; dù là rừng rậm các ngươi cũng sẽ khai phá ra và bờ cõi các vùng ấy đều thuộc về các ngươi; các ngươi cũng sẽ trục xuất được dân Ca-na-an dù chúng cường thịnh và có chiến xa.”
Chia Các Lãnh Thổ Còn Lại
Toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên họp tại Si-lô và dựng Trại Hội Kiến lên. Khắp đất nước đều đặt dưới quyền kiểm soát của họ, nhưng vẫn còn bảy bộ tộc Y-sơ-ra-ên chưa nhận được cơ nghiệp mình.
Vậy, Giô-suê bảo dân Y-sơ-ra-ên: “Các ngươi còn đợi cho đến bao giờ mới bắt đầu chiếm lãnh thổ mà CHÚA, Đức Chúa Trời của tổ phụ các ngươi đã ban cho các ngươi. Mỗi bộ tộc hãy chỉ định ba người, ta sẽ sai họ ra đi khảo sát địa hình rồi viết bản báo cáo về cơ nghiệp của bộ tộc mình. Lúc ấy họ sẽ quay về với ta. Các ngươi phải chia đất ra làm bảy phần. Giu-đa phải ở lại trong lãnh thổ phía nam và nhà Giô-sép thì ở lãnh thổ phương bắc. Sau khi các ngươi viết bảng tường trình về bảy phần đất, hãy đem đến đây cho ta, ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại trước mặt CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi. Tuy nhiên, người Lê-vi không được lãnh phần đất nào giữa các ngươi vì chức vụ tế lễ cho CHÚA là cơ nghiệp của họ. Các bộ tộc Gát, Ru-bên và nửa bộ tộc Ma-na-se đã lãnh được lãnh thổ phía đông sông Giô-đanh mà Môi-se, tôi tớ CHÚA đã cho họ làm sản nghiệp.”
Khi họ bắt đầu ra đi vẽ bản đồ xứ này, Giô-suê còn cho chỉ thị: “Các ngươi hãy ra đi khảo sát vùng đất này và viết bài mô tả rồi quay về với ta. Ta sẽ bắt thăm cho các ngươi tại Si-lô trước mặt CHÚA.” Vậy, họ lên đường và đi suốt cả đất nước, viết trong cuộn da bài mô tả từng thành phố cả bảy phần đất rồi quay về với Giô-suê trong trại quân tại Si-lô. Giô-suê bắt thăm cho họ tại Si-lô trước mặt CHÚA, và cũng tại đây, ông chia lãnh thổ cho dân Y-sơ-ra-ên tùy theo bộ tộc họ.
Chia Đất Cho Bên-gia-min
Phần đất bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Bên-gia-min, theo từng gia tộc. Lãnh thổ họ nằm giữa bộ tộc Giu-đa và bộ tộc Giô-sép.
Ranh giới họ về phía bắc, khởi đi từ sông Giô-đanh, chạy lên phía bắc sườn núi Giê-ri-cô, hướng về phía tây lên đến vùng đồi núi rồi chạy về sa mạc Bết A-ven. Từ đó, ranh giới vượt qua phía nam sườn núi Lu-xơ (tức là Bê-tên), rồi đi xuống A-ta-rốt A-đa trên đồi phía nam của Bết Hô-rôn hạ.
Từ ngọn đồi đối ngang Bết Hô-rôn về phía nam, ranh giới chạy xuống miền nam dọc theo phía tây cho đến khi giáp thành Ki-ri-át Ba-anh (tức là Ki-ri-át Giê-a-rim), một thành của dân Giu-đa. Đó là ranh giới phía tây.
Ranh giới phía nam bắt đầu từ ngoại thành Ki-ri-át Giê-a-rim về phía tây chạy về suối nước Nép-thô-ách. Ranh giới đi xuống phía chân đồi đối ngang trũng Bên Hi-nôm ở phía bắc trũng Rê-pha-im, tiếp tục xuống trũng Hi-nôm dọc theo sườn núi phía nam của thành dân Giê-bu-sít cho đến Ên Rô-ghên. Ranh giới vòng lên phía bắc đến Ên-sê-mết, tiếp tục chạy về Ghê-li-lốt đối ngang đèo A-đu-mim cho đến tận tảng đá Bô-han (tên con của Ru-bên). Ranh giới tiếp tục chạy lên sườn núi phía bắc của Bết A-ra-ba rồi xuống đến A-ra-ba. Rồi ranh giới quay sang sườn núi phía bắc của Bết Hốt-la, đến giáp vịnh phía bắc của Biển Mặn tại cửa sông Giô-đanh về phía nam. Đó là ranh giới về phía nam.
Sông Giô-đanh làm ranh giới về phía đông.
Đó là ranh giới tứ phía của cơ nghiệp của gia tộc Bên-gia-min.
Bộ tộc Bên-gia-min được các thành sau đây theo từng gia tộc:
Giê-ri-cô, Bết Hốt-la, Ê-méc-kê-sít, Bết A-ra-ba, Xê-ma-ra-im, Bê-tên, A-vim, Pha-ra, Óp-ra, Kê-pha A-mô-nai, Óp-ni và Ghê-ba: cộng lại là mười hai thành và các làng phụ cận;
Ga-ba-ôn, Ra-ma, Bê-ê-rốt, Mít-bê, Kê-phi-ra, Một-sa, Rê-kem, Diệt Bê-ên, Tha-rê-a-la, Xê-la, Ê-lép, Giê-bu, tức Giê-ru-sa-lem, Ghi-bê-át, Ki-ri-át: cộng lại là mười bốn thành với các làng phụ cận.
Đó là phần cơ nghiệp của dòng dõi Bên-gia-min.
Chia Đất Cho Si-mê-ôn
Phần đất thứ hai bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Si-mê-ôn, theo từng gia tộc. Cơ nghiệp họ nằm giữa cơ nghiệp của người Giu-đa. Lãnh thổ họ gồm có Bê-e-sê-ba, Sê-ba, Mô-la-đa, Hát-sa Su-anh, Ba-la, Ê-xem, Ên-thô-lát, Bê-thu, Họt-ma, Xiếc-lác, Bết Ma-ca-bốt, Hát-sa Su-sa, Bết Lê-ba-ốt và Sê-a-ru-chen: cộng lại được mười ba thành với các làng phụ cận;
A-in, Rim-môn, Ê-the và A-san: cộng lại được bốn thành và các làng phụ cận; luôn tất cả các làng xung quanh các thành ấy cho đến Ba-lát-bê-e (tức là Ra-ma ở miền nam).
Đó là cơ nghiệp của bộ tộc Si-mê-ôn, theo từng gia tộc. Cơ nghiệp của dân Si-mê-ôn là một phần đất của Giu-đa lấy chia cho họ vì lãnh thổ của Giu-đa quá lớn. Vậy, người Si-mê-ôn nhận cơ nghiệp mình trong lãnh thổ Giu-đa.
Chia Đất Cho Sa-bu-luân
Phần đất thứ ba bắt trúng nhằm bộ tộc Sa-bu-luân, theo từng gia tộc.
Ranh giới cơ nghiệp họ chạy đến tận Sa-ríp, qua phía tây chạy đến Ma-rê-a-la, giáp Đáp-bê-sết và kéo dài đến khe gần Giốc-nê-am. Từ Sa-ríp quay về phía đông hướng mặt trời mọc, ranh giới chạy đến lãnh thổ Kít-lốt Tha-bô và đi về phía Đáp-rát, lên đến Gia-phia. Từ đó ranh giới chạy về phía đông cho đến Gát Hê-phê và Ết-cát-sin, kéo dài từ Rim-môn và quay sang Nê-a. Từ đó, ranh giới chạy quanh lên phía bắc cho đến Ha-na-thôn và chấm dứt ở trũng Díp-tha-ên; gồm có các thành Cát-tát, Na-ha-la, Sim-rôn, Di-đê-a-la và Bết-lê-hem: cộng lại là mười thành và các làng phụ cận.
Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của Sa-bu-luân, theo từng gia tộc.
Chia Đất Cho Y-sa-ca
Phần đất thứ tư bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Y-sa-ca, theo từng gia tộc. Lãnh thổ họ gồm có:
Gít-rê-ên, Kê-su-lốt, Su-nem, Ha-pha-ra-im, Si-ôn, A-na-cha-rát, Ra-bít, Ki-si-ôn, Ê-bết, Rê-mết, Ên Ga-nim, Ên Ha-đa và Bết Phát-sết. Ranh giới đi ngang Tha-bô, Sa-chát-si-ma và Bết-sê-mết rồi giáp sông Giô-đanh: cộng lại được mười sáu thành với các làng phụ cận.
Các thành với các làng mạc đó là cơ nghiệp của bộ tộc Y-sa-ca, theo từng gia tộc.
Chia Đất Cho A-se
Phần đất thứ năm bắt thăm trúng nhằm bộ tộc A-se, theo từng gia tộc. Lãnh thổ họ gồm có:
Hên-cát, Ha-li, Bê-tên, Ạc-sáp, A-lam-mê-léc, A-mê-át và Mi-sê-anh. Phía tây, ranh giới đụng Cạt-mên và Shi-he Líp-na, quay sang phía đông về hướng Bết Đa-gôn đụng đất Sa-bu-luân và trũng Díp-tha-ên rồi quay về phía bắc cho đến Bết Ê-méc và Nê-ên, chạy ngang Ca-bun về phía tả, đi về Ếp-rôn, Rê-hốp, Ham-môn và Ca-na đến tận ngoại thành Si-đôn. Từ đó, ranh giới quay về hướng Ra-ma, đến thành kiên cố Ty-rơ quay sang Hô-sa, ra đến tận biển vùng Ạc-xíp, U-ma, A-phéc và A-mốt, cộng được hai mươi hai thành và các làng mạc phụ cận.
Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của A-se, theo từng gia tộc.
Chia Đất Cho Nép-ta-li
Phần đất thứ sáu bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Nép-ta-li, theo từng gia tộc.
Ranh giới chạy từ Hê-lép và cây cổ thụ ở Sa-na-nim đi về A-đa-mi Nê-kép và Giáp-nê-ên đến Lạc-cung rồi giáp sông Giô-đanh. Ranh giới chạy về phía tây qua Át-nốt Tha-bô đến Hục-cốc; phía nam giáp đất Sa-bu-luân, phía tây giáp đất A-se và phía đông giáp sông Giô-đanh. Các thành kiên cố là: Xi-đim, Xe-rơ, Ha-mát, Ra-cát, Ki-nê-rết, A-đa-ma, Ra-ma, Hát-so, Kê-đe, Ên Rê-i, Ên Hát-so, Gi-rê-ôn, Mít-đa Ên, Hô-rem, Bết A-nát và Bết Sê-mết: cộng lại là mười chín thành và các làng phụ cận.
Các thành và các làng đó là cơ nghiệp bộ tộc Nép-ta-li, theo từng gia tộc.
Chia Đất Cho Đan
Phần đất thứ bảy bắt thăm trúng nhằm bộ tộc Đan, theo từng gia tộc. Lãnh thổ cơ nghiệp họ gồm có:
Xô-rê-a, Ết-tha-ôn, Yết Sê-mết, Sa-ba-bin, A-gia-lôn, Gít-la, Ê-lôn, Thim-na-tha, Éc-rôn, Ên-thê-kê, Ghi-bê-thôn, Ba-lát, Giê-hút, Bê-nê Bê-rác, Gát Rim-môn, Mê Giạt-côn và Ra-côn với vùng đất đối ngang Gia-phô.
Nhưng người Đan gặp trở ngại không thể chiếm được lãnh thổ chia cho mình, nên họ lên tấn công Lê-sem, hạ thành ấy và dùng gươm giết dân cư rồi chiếm đóng thành này. Họ định cư tại Lê-sem rồi lấy tên Đan đặt cho thành này theo tên tổ phụ mình. Các thành và các làng mạc đó là cơ nghiệp của bộ tộc Đan, theo từng gia tộc.
Chia Đất Cho Giô-suê
Sau khi chia đất thành từng miền cho các bộ tộc xong, người Y-sơ-ra-ên tặng Giô-suê, con trai Nun, một cơ nghiệp ở giữa họ theo lệnh của CHÚA. Họ tặng người thành mà người yêu cầu: Thim-nát Sê-rách trong vùng đồi núi Ép-ra-im. Giô-suê xây thành và định cự tại đó.
Đó là các lãnh thổ mà thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai Nun và các nhà lãnh đạo của các gia tộc tông bộ tộc Y-sơ-ra-ên đã bắt thăm chia đất tại Si-lô trước mặt CHÚA, nơi lối vào Trại Hội Kiến. Như vậy, họ hoàn tất việc chia đất.
Các Thành Ẩn Náu
CHÚA phán bảo Giô-suê: “Con hãy bảo dân Y-sơ-ra-ên chỉ định các thành ẩn náu như Ta đã dùng Môi-se ra chỉ thị, hầu cho hễ ai lỡ tay và không cố ý mà giết người có thể trốn đến các thành này và được che chở khỏi bị người báo thù huyết làm hại.
Khi kẻ ấy trốn đến các thành này, nó phải đứng tại lối vào cổng thành và trình bày trường hợp mình trước mặt các trưởng lão của thành này. Các trưởng lão ấy phải tiếp nhận nó vào trong thành và cho nó một chỗ ở với họ. Nếu kẻ báo thù huyết đuổi theo nó, các trưởng lão không được giao nạp kẻ bị cáo, vì nó đã vô tình giết người lân cận không thù oán trước. Nó phải ở trong thành đó cho đến khi ra tòa trước hội đồng dân chúng và tiếp tục ở lại cho đến khi thầy thượng tế đương chức qua đời. Lúc ấy, nó mới được phép trở về thành mình.”
Vậy, họ để riêng thành Kê-đe trong xứ Ga-li-lê thuộc vùng đồi núi Nép-ta-li, Si-chem thuộc vùng đồi núi Ép-ra-im, Ki-ri-át A-ra-ba (tức là Hếp-rôn) thuộc vùng đồi núi Giu-đa. Còn phía đông sông Giô-đanh tại Giê-ri-cô, họ chỉ định Bê-se trong đồng hoang trên cao nguyên thuộc bộ tộc Ru-bên, Ra-mốt trong xứ Ga-la-át thuộc bộ tộc Gát và Gô-lan trong xứ Ba-san thuộc bộ tộc Ma-na-se. Bất cứ người Y-sơ-ra-ên nào hay người ngoại kiều sống giữa họ một khi lỡ tay giết người đều có thể trốn đến các thành đã chỉ định đó, cho khỏi bị kẻ báo thù huyết giết chết trước khi ra tòa, để chịu hội đồng dân chúng xét xử.
Các Thành Dành Cho Người Lê-vi
Các trưởng bộ tộc Lê-vi đến gần thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, Giô-suê, con trai Nun, và các trưởng bộ tộc khác của Y-sơ-ra-ên tại Si-lô trong xứ Ca-na-an mà thưa: “CHÚA đã dùng Môi-se truyền lệnh cho quý vị cấp cho chúng tôi các thành để cư trú và các đồng cỏ để nuôi gia súc.” Vậy, dân Y-sơ-ra-ên cấp cho người Lê-vi các thành và đồng cỏ sau đây lấy từ trong sản nghiệp của toàn dân, theo lệnh của CHÚA:
Thăm thứ nhất trúng nhằm họ Kê-hát theo từng gia tộc. Người Lê-vi, dòng dõi của thầy tế lễ A-rôn được cấp mười ba thành lấy trong lãnh thổ của các bộ tộc Giu-đa, Si-mê-ôn và Bên-gia-min. Phần còn lại của dòng dõi Kê-hát được cấp mười thành trong đất của gia tộc các bộ tộc Ép-ra-im, Đan và nửa bộ tộc Ma-na-se.
Dòng dõi Ghẹt-sôn được cấp mười ba thành lấy trong đất của gia tộc các bộ tộc Y-sa-ca, A-se, Nép-ta-li, và nửa bộ tộc Ma-na-se ở Ba-san.
Dòng dõi Mê-ra-ri, theo từng gia tộc, được mười hai thành lấy trong đất của các bộ tộc Ru-bên, Gát và Sa-bu-luân.
Dân Y-sơ-ra-ên cấp cho người Lê-vi các thành và đồng cỏ đó như CHÚA đã dùng Môi-se truyền lệnh.
Người ta cấp các thành sau đây lấy từ các bộ tộc Giu-đa và Si-mê-ôn (các thành này được chỉ định cho dòng dõi A-rôn, con cháu Kê-hát, trong các gia tộc Lê-vi vì thành thứ nhất trúng nhằm họ).
Người ta cấp cho họ Ki-ri-át A-ra-ba (tức là Hếp-rôn), với các đồng cỏ xung quanh trong miền đồi núi Giu-đa (A-ra-ba là tên tổ phụ của A-nác) nhưng các cánh đồng và các làng quanh thành này được cấp cho Ca-lép, con trai Giê-phu-nê, làm sản nghiệp.
Vậy, người ta cấp cho dòng dõi của thầy tế lễ A-rôn thành Hếp-rôn (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Líp-na; Giạt-thia, Ê-thê-mô-a, Hô-lôn, Đê-bia, A-in, Giu-ta và Bết-sê-mết với các đồng cỏ xung quanh các thành, cộng lại là chín thành lấy trong đất hai bộ tộc này.
Người ta cấp cho họ các thành Ga-ba-ôn, Ghê-ba, A-na-lốt và Anh-môn với các đồng cỏ xung quanh, từ trong đất Bên-gia-min, cộng lại là bốn thành.
Tất cả các thành cấp cho các thầy tế lễ, con cháu A-rôn, cộng lại là mười ba thành với các đồng cỏ xung quanh.
Phần còn lại của các gia tộc Kê-hát, người Lê-vi được cấp các thành sau đây lấy từ lãnh thổ của bộ tộc Ép-ra-im:
Trong miền đồi núi Ép-ra-im, họ được cấp các thành Si-chem (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Ghê-xe, Kíp-sa-im, Bết Hô-rôn và các đồng cỏ quanh thành, cộng lại là bốn thành.
Họ cũng được cấp các thành Ên-thê-kê, Ghi-bê-thôn, A-gia-lôn và Gát Rim-môn với các đồng cỏ xung quanh lấy trong lãnh thổ bộ tộc Đan, cộng lại là bốn thành.
Họ được cấp các thành Tha-a-nác và Gát Rim-môn với các đồng cỏ xung quanh lấy từ lãnh thổ của nửa bộ tộc Ma-na-se, cộng lại là hai thành.
Tất cả mười thành đó và các đồng cỏ xung quanh được cấp cho phần còn lại của các gia tộc Kê-hát.
Các gia tộc Ghẹt-sôn, người Lê-vi được cấp:
Gô-lan trong xứ Ba-san (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân) và Bết-ê-ra với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ của nửa bộ tộc Ma-na-se, cộng lại là hai thành;
Các thành Ki-si-ôn, Đáp-rát, Giạt-mút và Ên-gha-nim với các đồng cỏ xung quanh thành, lấy từ lãnh thổ của bộ tộc Y-sa-ca, cộng lại là bốn thành;
Mi-sê-anh, Áp-đôn, Hên-cát và Rê-hốp với các đồng cỏ xung quanh lấy từ lãnh thổ của bộ tộc A-se, cộng lại là bốn thành;
Kê-đe ở Ga-li-lê (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Ha-mốt Đô-rơ và Cạt-than với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ của bộ tộc Nép-ta-li, cộng lại là ba thành.
Tất cả các thành của các gia tộc Ghẹt-sôn cộng lại được mười ba thành với các đồng cỏ xung quanh.
Các gia tộc Mê-ra-ri (tức là những người Lê-vi còn sót lại) được cấp:
Giốc-nê-am, Cát-tát, Đim-na và Na-ha-la với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ Sa-bu-luân, cộng lại là bốn thành;
Bết-se, Giát-sa, Kê-đê-mốt và Mê-phát với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ Ru-bên, cộng lại là bốn thành.
Ra-mốt ở Ga-la-át (một thành ẩn náu cho kẻ sát nhân), Ma-ha-na-im, Hết-bôn và Gia-ê-xe với các đồng cỏ xung quanh, lấy từ lãnh thổ của bộ tộc Gát, cộng lại là bốn thành.
Tất cả các thành cấp cho các gia tộc Mê-ra-ri (tức là phần còn lại của người Lê-vi) cộng lại là mười hai thành.
Các thành của người Lê-vi trong lãnh thổ Y-sơ-ra-ên tổng cộng được bốn mươi tám thành với các đồng cỏ xung quanh. Mỗi thành đều có các đồng cỏ xung quanh; thành nào cũng vậy.
Như thế, CHÚA ban cho Y-sơ-ra-ên tất cả các lãnh thổ mà Ngài đã thề hứa với tổ phụ họ. Họ chiếm hữu đất đai và định cư tại đó. CHÚA ban cho họ được an nghỉ đủ mọi phía như Ngài đã thề với tổ phụ họ. Không một kẻ thù nghịch nào chống nổi họ; CHÚA giao nạp tất cả kẻ thù nghịch vào tay họ. Trong tất cả các lời hứa tốt lành mà CHÚA đã phán cho nhà Y-sơ-ra-ên, chẳng có một lời nào không thành tựu; tất cả đều ứng nghiệm.
Các Chi Tộc Ở Miền Đông Trở Về
Bấy giờ, Giô-suê triệu tập người Ru-bên, Gát và phân nửa bộ tộc Ma-na-se, mà bảo: “Các ngươi đã làm tất cả những điều Môi-se, tôi tớ của CHÚA, truyền dặn. Các ngươi cũng đã vâng lệnh ta trong mọi việc. Trải qua một thời gian dài, cho đến ngày nay, các ngươi không bỏ anh em mình, nhưng thực thi mọi công tác CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã giao thác. Bây giờ, CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi đã cho anh em các ngươi an nghỉ như lời Ngài đã hứa, nên các ngươi hãy trở về nhà các ngươi trong lãnh thổ mà Môi-se, đầy tớ CHÚA, đã cấp phát cho các ngươi bên kia sông Giô-đanh. Nhưng các ngươi hãy hết sức cẩn thận vâng giữ điều răn và Kinh Luật mà Môi-se, tôi tớ CHÚA, đã truyền cho các ngươi: tức là yêu thương CHÚA, Đức Chúa Trời của các ngươi, đi theo tất cả các đường lối Ngài, vâng giữ các điều răn Ngài, gắn bó với Ngài cùng hết lòng và hết linh hồn phụng sự Ngài.”
Giô-suê chúc phước và cho họ ra về; họ lên đường về nhà mình. (Môi-se đã cấp đất Ba-san cho một nửa bộ tộc Ma-na-se, còn nửa bộ tộc kia được Giô-suê cấp đất phía tây sông Giô-đanh cùng với anh em họ). Khi cho họ ra về, Giô-suê chúc phước cho họ như sau: “Các ngươi hãy trở về nhà mình với của cải dồi dào: các bầy gia súc đông đảo, bạc, vàng, đồng, sắt, và số lượng y phục rất nhiều. Hãy chia xẻ cho anh em mình các chiến lợi phẩm đó mà các ngươi đã thu được từ quân thù”.
Vậy, người Ru-bên, người Gát và phân nửa bộ tộc Ma-na-se rời dân Y-sơ-ra-ên tại Si-lô trong xứ Ca-na-an, quay về xứ Ga-la-át là lãnh thổ mình mà họ đã chiếm được theo lệnh CHÚA truyền bảo Môi-se.
Khi họ đến Ghê-li-lốt, gần sông Giô-đanh trong xứ Ca-na-an, người Ru-bên, người Gát và phân nửa bộ tộc Ma-na-se xây một bàn thờ lớn bên bờ sông Giô-đanh. Khi dân Y-sơ-ra-ên nghe tin họ đã xây bàn thờ tại ranh giới xứ Ca-na-an, ở Ghê-li-lốt gần sông Giô-đanh, về phía lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên đều tập họp tại Si-lô để tấn công các bộ tộc này.
Vậy, dân Y-sơ-ra-ên sai Phi-nê-a, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa qua xứ Ga-la-át gặp các bộ tộc Ru-bên, Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se. Cùng đi với người có mười trưởng bộ tộc, mỗi bộ tộc một người, mỗi người đều đứng đầu một bộ tộc trong gia tộc Y-sơ-ra-ên.
Khi phái đoàn đến xứ Ga-la-át, gặp các bộ tộc Ru-bên, Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se, bèn bảo họ: “Toàn thể hội chúng của CHÚA hỏi: ‘Sao các ngươi bất trung với Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên như thế? Sao các ngươi từ bỏ CHÚA mà xây một bàn thờ cho mình để phản loạn với Ngài? Tội ác của Phê-ô gây một trận dịch cho dân Chúa, mãi đến nay chúng ta vẫn chưa thanh tẩy được; điều đó chưa đủ hay sao? Mà nay các ngươi dám trở mặt với CHÚA?
Nếu ngày nay các ngươi phản loạn với CHÚA, ngày mai Ngài sẽ phẫn nộ với toàn thể hội chúng Y-sơ-ra-ên. Nếu lãnh thổ thuộc quyền sở hữu các ngươi bị ô uế, thì hãy qua lãnh thổ của CHÚA là nơi dựng Đền Tạm của CHÚA để chia đất với chúng ta mà ở. Nhưng đừng phản loạn với CHÚA và với chúng ta bằng cách xây một bàn thờ riêng cho mình khác với bàn thờ của CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng ta. Khi A-can, con trai Xê-rách, phạm tội bất trung về các vật phải dâng cho Chúa, thì cơn phẫn nộ há chẳng giáng xuống trên cả hội chúng Y-sơ-ra-ên sao? Người ấy đâu có phải là người duy nhất bị chết vì tội lỗi mình.’ ”
Người Ru-bên, Gát và nửa bộ tộc Ma-na-se đáp lại với các trưởng bộ tộc của Y-sơ-ra-ên: “Đức Chúa Trời Toàn Năng, CHÚA, Đức Chúa Trời Toàn Năng, CHÚA biết rõ! Và Y-sơ-ra-ên sẽ biết rõ! Nếu đây là một cuộc phản loạn hay bất tuân lời CHÚA, thì xin Ngài đừng tha mạng sống cho chúng tôi. Nếu chúng tôi xây đền thờ riêng để quay lưng lại với CHÚA và dâng các tế lễ thiêu, tế lễ chay, hay dâng các tế lễ cầu an thì xin chính CHÚA phán xét chúng tôi.
Chúng tôi làm như thế vì sợ rằng một ngày kia dòng dõi của anh em sẽ nói với dòng dõi của chúng tôi: ‘Các ngươi có phần gì với CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên? CHÚA đã lập sông Giô-đanh làm biên giới giữa chúng ta và các ngươi, hỡi người Ru-bên và Gát! Các ngươi chẳng có phần gì trong CHÚA cả.’ Như thế, dòng dõi của anh em sẽ làm cho dòng dõi của chúng tôi thôi kính sợ CHÚA.
Vì thế, chúng tôi nói: ‘Chúng ta hãy sẵn sàng xây một bàn thờ, không phải để dâng tế lễ thiêu hay các lễ vật khác.’ Trái lại, bàn thờ này sẽ làm chứng giữa chúng tôi và anh em, và suốt cả các thế hệ sau nữa, rằng chúng tôi sẽ thờ phượng CHÚA tại đền thánh Ngài với các tế lễ thiêu, sinh tế và tế lễ cầu an. Trong tương lai, dòng dõi của anh em sẽ không thể nào nói với dòng dõi chúng tôi: ‘Các ngươi chẳng có phần nào trong CHÚA cả.’
Và chúng tôi nói: ‘Nếu khi nào họ nói chúng ta và dòng dõi chúng ta như thế thì chúng ta sẽ đáp: xin anh em hãy nhìn bản sao đúng như bàn thờ của CHÚA mà tổ phụ chúng ta đã xây, không phải để dâng tế lễ thiêu hay sinh tế, nhưng để làm chứng giữa chúng ta và anh em.’
Chúng tôi chẳng bao giờ phản loạn với CHÚA và trở mặt với Ngài ngày nay bằng cách xây một bàn thờ khác hơn bàn thờ của CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi đặt trước Đền Tạm để dâng tế lễ thiêu, tế lễ chay và các sinh tế.”
Khi thầy tế lễ Phi-nê-a và các nhà lãnh đạo của hội chúng, tức là các trưởng bộ tộc của dân Y-sơ-ra-ên, nghe lời trình bày của người Ru-bên, Gát và Ma-na-se, họ đều hài lòng. Vậy, Phi-nê-a, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, bảo người Ru-bên, Gát và Ma-na-se: “Ngày nay, chúng ta biết rõ rằng CHÚA đang ở với chúng ta, vì trong việc này, các ngươi không hành động bất trung với CHÚA. Bây giờ, các ngươi đã cứu dân Y-sơ-ra-ên khỏi tay CHÚA.”
Bấy giờ, Phi-nê-a, con trai thầy tế lễ Ê-lê-a-sa, và các nhà lãnh đạo quay về xứ Ca-na-an sau cuộc hội kiến với người Ru-bên và Gát ở Ga-la-át rồi báo cáo mọi việc cho dân Y-sơ-ra-ên. Toàn dân vui mừng nghe báo cáo và ca ngợi Đức Chúa Trời. Họ không còn nói đến việc chiến tranh và tàn phá lãnh thổ của người Ru-bên và Gát nữa.
Người Ru-bên và người Gát đặt tên cho bàn thờ ấy là: “Một chứng tích giữa chúng ta” rằng CHÚA là Đức Chúa Trời.
Giô-suê Từ Giã Các Nhà Lãnh Đạo
Sau một thời gian dài, khi CHÚA đã cho dân Y-sơ-ra-ên được nghỉ ngơi khỏi bị các kẻ thù xung quanh quấy rối và Giô-suê tuổi cao tác lớn, ông triệu tập toàn thể các trưởng lão, các nhà lãnh đạo, các thẩm phán và các quan chức của Y-sơ-ra-ên mà bảo họ: “Tôi đã già, tuổi đã cao. Các ngươi đã thấy mọi điều CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi làm cho tất cả các dân tộc này vì cớ các ngươi; chính CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã chiến đấu cho các ngươi. Hãy nhớ lại cách tôi bắt thăm chia sản nghiệp cho các bộ tộc tất cả lãnh thổ của các dân tộc còn lại, các dân tộc tôi đã chiến thắng, giữa sông Giô-đanh và Biển Lớn ở phương tây. Chính CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi, sẽ đuổi sạch dân ấy trước mặt các ngươi. Ngài sẽ trục xuất họ trước mặt các ngươi, và các ngươi sẽ chiếm hữu lãnh thổ của họ, như CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã hứa cho các ngươi.
Vậy, hãy hết sức mạnh dạn và cẩn thận vâng giữ tất cả những điều đã chép trong Sách Kinh Luật Môi-se, không xây qua bên hữu hay bên tả. Đừng cấu kết với các dân tộc này đang còn ở giữa các ngươi; đừng xưng tên các thần của họ hoặc nhân danh các thần ấy mà thề nguyện. Các ngươi không được phụng sự hay thờ lạy trước các thần ấy. Nhưng các ngươi phải gắn bó với CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi như các ngươi đã làm cho đến ngày nay.
Vì CHÚA đã đuổi khỏi trước mặt các ngươi những dân tộc lớn và mạnh. Cho đến ngày nay, không ai chống cự nổi các ngươi. Một người trong các ngươi đuổi được cả ngàn quân thù, vì CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi là Đấng chiến đấu cho các ngươi như Ngài đã hứa. Vậy, hãy hết sức cẩn thận yêu mến CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi.
Nhưng nếu các ngươi trở mặt quay lại và liên minh với các dân tộc này còn sót lại ở giữa các ngươi; nếu các ngươi cưới gả và liên kết với chúng nó thì chắc chắn CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi sẽ không đuổi các dân tộc ấy trước mặt các ngươi nữa. Trái lại, họ sẽ thành cạm bẫy cho các ngươi, làm roi đánh nơi hông, làm gai chông chích trong mắt cho đến khi các ngươi bị tiêu diệt khỏi lãnh thổ tốt đẹp này mà CHÚA, Đức Chúa Trời đã ban cho các ngươi.
Bây giờ, tôi sắp đi con đường cả thế gian phải đi. Vậy, hãy hết lòng, hết linh hồn nhận thức rằng tất cả các lời hứa tốt lành mà CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã phán cho các ngươi chẳng một lời nào sai hết; tất cả đều ứng nghiệm, không sót một điều nào. Nhưng hễ các lời hứa tốt lành của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi được ứng nghiệm thể nào, thì CHÚA cũng sẽ đem đến cho các ngươi những tai họa Ngài đe dọa thể ấy, cho đến khi nào Ngài tiêu diệt các ngươi khỏi lãnh thổ tốt lành Ngài đã ban cho các ngươi. Nếu các ngươi bội giao ước của CHÚA, Đức Chúa Trời các ngươi đã truyền dặn, mà bỏ đi phụng sự và quỳ lạy các thần khác, thì cơn phẫn nộ của CHÚA sẽ nổi giận nghịch với các ngươi, các ngươi sẽ bị tiêu diệt nhanh chóng khỏi lãnh thổ tốt đẹp mà Ngài đã ban cho các ngươi.”
Tái Lập Giao Ước Tại Si-chem
Giô-suê tập họp tất cả các bộ tộc Y-sơ-ra-ên tại Si-chem. Ông cũng triệu tập các trưởng lão, các nhà lãnh đạo, các thẩm phán và các quan chức của Y-sơ-ra-ên; họ đều trình diện trước mặt Đức Chúa Trời.
Giô-suê nói với toàn dân: “CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên đã phán: ‘Thời xưa tổ tiên các ngươi là Tha-rê, thân phụ của Áp-ra-ham và Na-cô, ở phía bên kia Sông Lớn và thờ lạy các thần khác. Nhưng Ta đã đem Áp-ra-ham, tổ phụ các ngươi, ra khỏi lãnh thổ bên kia Sông Lớn và dẫn ngươi đi khắp xứ Ca-na-an, ban cho người nhiều hậu tự. Ta ban Y-sác cho người, ban Gia-cốp và Ê-sau cho Y-sác. Ta cấp miền rừng núi Sê-i-rơ cho Ê-sau, nhưng Gia-cốp và các con trai người đều xuống Ai-cập.
Rồi Ta sai Môi-se và A-rôn, dùng nhiều việc kỳ dấu lạ để hành hạ người Ai-cập và đem các ngươi ra khỏi xứ đó. Khi Ta đem tổ phụ các ngươi ra khỏi Ai-cập đến bờ biển, người Ai-cập đuổi theo với quân xa và kỵ binh đến tận Biển Đỏ. Nhưng tổ phụ các ngươi cầu cứu CHÚA, Ngài dùng bóng tối phân rẽ các ngươi với người Ai-cập; Ngài cho nước biển phủ lên người Ai-cập, chính các người thấy tận mắt những việc Ta làm cho người Ai-cập. Rồi các ngươi sống trong sa mạc một thời gian dài.
Ta đem các ngươi đến lãnh thổ người A-mô-rít phía đông sông Giô-đanh. Họ chống đánh các ngươi, nhưng Ta giao nạp họ vào tay các ngươi. Ta tiêu diệt họ trước mặt các ngươi và các ngươi chiếm hữu lãnh thổ của họ. Khi Ba-lác con trai Xếp-bô, vua Mô-áp, chuẩn bị chống đánh Y-sơ-ra-ên, vua vời Ba-la-am, con trai Bê-ô, đến rủa sả các ngươi. Nhưng Ta không chịu nghe Ba-la-am; vì vậy, người phải chúc phước các ngươi liên hồi và Ta giải cứu các ngươi khỏi tay người.
Rồi các ngươi vượt qua sông Giô-đanh mà đến Giê-ri-cô; dân thành Giê-ri-cô chống đánh các ngươi cũng như dân A-mô-rít, Phê-rê-sít, Ca-na-an, Hê-tít, Ghi-rê-ga-sít, Hê-vít và Giê-bu-sít, nhưng Ta giao nạp họ vào tay các ngươi. Ta sai ong vò vẽ đi trước các ngươi và đuổi chúng nó trước mặt các ngươi, như đuổi hai vua A-mô-rít. Các ngươi không dùng gươm cung mình để đuổi họ. Như thế, Ta ban cho các ngươi lãnh thổ mà các ngươi không phải khó nhọc cày bừa, các thành mà các ngươi không xây cất; các ngươi định cư ở đó. Các vườn nho và vườn ô-liu mà các ngươi không trồng đều dùng làm lương thực cho các ngươi.
Vậy, bây giờ hãy kính sợ CHÚA và hết lòng trung tín phụng sự Ngài. Hãy ném bỏ các thần mà tổ tiên các ngươi đã thờ phượng bên kia Sông Lớn và tại Ai-cập mà phụng sự CHÚA. Nhưng nếu các ngươi không thích phụng sự CHÚA thì ngày nay hãy chọn ai mà các ngươi muốn phụng sự, hoặc các thần mà tổ tiên đã phụng sự bên kia Sông Lớn, hoặc các thần của dân A-mô-rít trong lãnh thổ các ngươi đang ở, nhưng ta và nhà ta sẽ phụng sự CHÚA.’ ”
Nhưng dân chúng đều đáp: “Chúng tôi quyết chẳng bao giờ bỏ CHÚA mà phụng sự các thần khác đâu! Chính CHÚA, Đức Chúa Trời chúng tôi đã đem chúng tôi và tổ phụ chúng tôi ra khỏi Ai-cập là nhà nô lệ, thực hiện những dấu lạ vĩ đại đó ngay trước mắt chúng tôi và phù hộ chúng tôi suốt cuộc trường chinh, khỏi bị các dân tộc hai bên đường làm hại. Ngài tống đuổi trước mặt chúng tôi tất cả các dân tộc, kể cả người A-mô-rít đang ở trong xứ. Chúng tôi cũng sẽ phụng sự CHÚA vì Ngài là Đức Chúa Trời của chúng tôi.”
Giô-suê bảo dân chúng: “Các ngươi không đủ sức phụng sự CHÚA đâu vì Ngài là Đức Chúa Trời thánh, Đức Chúa Trời kỵ tà. Ngài không dung túng sự phản loạn và tội lỗi của các ngươi. Nếu các ngươi bỏ CHÚA mà phụng sự các thần ngoại thì Ngài sẽ xoay lại giáng họa cho các ngươi, kết liễu số phận các ngươi, sau khi đã đối xử tốt với các ngươi cho đến bây giờ.”
Nhưng dân chúng vẫn thưa với Giô-suê: “Không đâu, chúng tôi sẽ phụng sự CHÚA.”
Lúc ấy, Giô-suê nói: “Các ngươi tự làm nhân chứng cho mình rằng các ngươi đã lựa chọn việc phụng sự CHÚA.” Dân chúng đáp: “Vâng, chúng tôi xin làm nhân chứng.”
Giô-suê tiếp: “Vậy bây giờ hãy loại bỏ các thần ngoại còn giữa các ngươi, đem lòng đầu phục CHÚA, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên!”
Dân chúng đáp lời Giô-suê: “Chúng tôi sẽ phụng sự CHÚA, Đức Chúa Trời của chúng tôi và vâng lời Ngài.”
Hôm ấy, Giô-suê lập một giao ước cho dân chúng và thiết định các sắc lệnh và quy luật tại Si-chem. Giô-suê ghi chép các lời ấy vào Sách Kinh Luật của Đức Chúa Trời. Rồi ông lấy một tảng đá lớn, dựng lên tại đó dưới cây sồi gần Nơi Thánh của CHÚA.
Giô-suê bảo toàn thể dân chúng: “Kìa, tảng đá này sẽ làm chứng cho chúng ta vì nó đã nghe tất cả những lời CHÚA phán dạy chúng ta. Nó sẽ làm chứng nghịch với các ngươi nếu các ngươi bất trung với Đức Chúa Trời mình.”
Giô-suê cho dân chúng ra về; mỗi người về trong cơ nghiệp mình.
Sau các việc đó, Giô-suê, con trai Nun, đầy tớ CHÚA qua đời, thọ được một trăm mười tuổi. Người ta an táng người trong lãnh thổ cơ nghiệp người tại Thim-nát Sê-rách, trên miền rừng núi Ép-ra-im, phía bắc núi Ga-ách.
Dân Y-sơ-ra-ên phụng sự CHÚA suốt đời Giô-suê và các trưởng lão còn sống sót sau Giô-suê, tức là những người đã kinh nghiệm mọi việc CHÚA đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên.
Hài cốt của Giô-sép mà dân Y-sơ-ra-ên đã đem ra khỏi Ai-cập được an táng tại Si-chem, trong miếng đất Gia-cốp đã mua của con cái Hê-mô, cha Si-chem, giá một trăm nén bạc;24:32 Nt: kesitah, một đơn vị tiền tệ thời thái cổ chưa được xác định dòng dõi Giô-sép được đất này làm cơ nghiệp.
Ê-lê-a-sa, con trai A-rôn, cũng qua đời và được an táng tại Ghi-bê-a, là nơi Phi-nê-a, con trai người được cấp trên miền đồi núi Ép-ra-im.
1
The Lord Commissions Joshua After Moses the LORD’s servant died, the LORD said to Joshua son of Nun, Moses’ assistant:
“Moses my servant is dead. Get ready! Cross the Jordan River! Lead these people into the land which I am ready to hand over to them.
I am handing over to you every place you set foot, as I promised Moses.
Your territory will extend from the desert in the south to Lebanon in the north. It will extend all the way to the great River Euphrates in the east(including all of Syria) and all the way to the Mediterranean Sea in the west.
No one will be able to resist you all the days of your life. As I was with Moses, so I will be with you. I will not abandon you or leave you alone.
Be strong and brave! You must lead these people in the conquest of this land that I solemnly promised their ancestors I would hand over to them.
Make sure you are very strong and brave! Carefully obey all the law my servant Moses charged you to keep! Do not swerve from it to the right or to the left, so that you may be successful in all you do.
This law scroll must not leave your lips! You must memorize it day and night so you can carefully obey all that is written in it. Then you will prosper and be successful.
I repeat, be strong and brave! Don’t be afraid and don’t panic, for I, the LORD your God, am with you in all you do.”
Joshua Prepares for the Invasion Joshua instructed the leaders of the people:
“Go through the camp and command the people,‘Prepare your supplies, for within three days you will cross the Jordan River and begin the conquest of the land the LORD your God is ready to hand over to you.’”
Joshua told the Reubenites, Gadites, and the half-tribe of Manasseh:
“Remember what Moses the LORD’s servant commanded you. The LORD your God is giving you a place to settle and is handing this land over to you.
Your wives, children and cattle may stay in the land that Moses assigned to you east of the Jordan River. But all you warriors must cross over armed for battle ahead of your brothers. You must help them
until the LORD gives your brothers a place like yours to settle and they conquer the land the LORD your God is ready to hand over to them. Then you may go back to your allotted land and occupy the land Moses the LORD’s servant assigned you east of the Jordan.”
They told Joshua,“We will do everything you say. We will go wherever you send us.
Just as we obeyed Moses, so we will obey you. But may the LORD your God be with you as he was with Moses!
Any man who rebels against what you say and does not obey all your commands will be executed. But be strong and brave!”
2
Joshua Sends Spies into the Land Joshua son of Nun sent two spies out from Shittim secretly and instructed them:“Find out what you can about the land, especially Jericho.” They stopped at the house of a prostitute named Rahab and spent the night there.
The king of Jericho received this report:“Note well! Israelite men have come here tonight to spy on the land.”
So the king of Jericho sent this order to Rahab:“Turn over the men who came to you– the ones who came to your house– for they have come to spy on the whole land!”
But the woman hid the two men and replied,“Yes, these men were clients of mine, but I didn’t know where they came from.
When it was time to shut the city gate for the night, the men left. I don’t know where they were heading. Chase after them quickly, for you have time to catch them!”
(Now she had taken them up to the roof and had hidden them in the stalks of flax she had spread out on the roof.)
Meanwhile the king’s men tried to find them on the road to the Jordan River near the fords. The city gate was shut as soon as they set out in pursuit of them.
Now before the spies went to sleep, Rahab went up to the roof.
She said to the men,“I know the LORD is handing this land over to you. We are absolutely terrified of you, and all who live in the land are cringing before you.
For we heard how the LORD dried up the water of the Red Sea before you when you left Egypt and how you annihilated the two Amorite kings, Sihon and Og, on the other side of the Jordan.
When we heard the news we lost our courage and no one could even breathe for fear of you. For the LORD your God is God in heaven above and on earth below!
So now, promise me this with an oath sworn in the LORD’s name. Because I have shown allegiance to you, show allegiance to my family. Give me a solemn pledge
that you will spare the lives of my father, mother, brothers, sisters, and all who belong to them, and rescue us from death.”
The men said to her,“If you die, may we die too! If you do not report what we’ve been up to, then, when the LORD hands the land over to us, we will show unswerving allegiance to you.”
Then Rahab let them down by a rope through the window.(Her house was built as part of the city wall; she lived in the wall.)
She told them,“Head to the hill country, so the ones chasing you don’t find you. Hide from them there for three days, long enough for those chasing you to return. Then you can be on your way.”
The men said to her,“We are not bound by this oath you made us swear unless the following conditions are met:
When we invade the land, tie this red rope in the window through which you let us down, and gather together in your house your father, mother, brothers, and all who live in your father’s house.
Anyone who leaves your house will be responsible for his own death– we are innocent in that case! But if anyone with you in the house is harmed, we will be responsible.
If you should report what we’ve been up to, we are not bound by this oath you made us swear.”
She said,“I agree to these conditions.” She sent them on their way and then tied the red rope in the window.
They went to the hill country and stayed there for three days, long enough for those chasing them to return. Their pursuers looked all along the way but did not find them.
Then the two men returned– they came down from the hills, crossed the river, came to Joshua son of Nun, and reported to him all they had discovered.
They told Joshua,“Surely the LORD is handing over all the land to us! All who live in the land are cringing before us!”
3
Israel Crosses the Jordan Bright and early the next morning Joshua and the Israelites left Shittim and came to the Jordan. They camped there before crossing the river.
After three days the leaders went through the camp
and commanded the people:“When you see the ark of the covenant of the LORD your God being carried by the Levitical priests, you must leave here and walk behind it.
But stay about three thousand feet behind it. Keep your distance so you can see which way you should go, for you have not traveled this way before.”
Joshua told the people,“Ritually consecrate yourselves, for tomorrow the LORD will perform miraculous deeds among you.”
Joshua told the priests,“Pick up the ark of the covenant and pass on ahead of the people.” So they picked up the ark of the covenant and went ahead of the people.
The LORD told Joshua,“This very day I will begin to honor you before all Israel so they will know that I am with you just as I was with Moses.
Instruct the priests carrying the ark of the covenant,‘When you reach the bank of the Jordan River, wade into the water.’”
Joshua told the Israelites,“Come here and listen to the words of the LORD your God!”
Joshua continued,“This is how you will know the living God is among you and that he will truly drive out before you the Canaanites, Hittites, Hivites, Perizzites, Girgashites, Amorites, and Jebusites.
Look! The ark of the covenant of the Lord of the whole earth is ready to enter the Jordan ahead of you.
Now select for yourselves twelve men from the tribes of Israel, one per tribe.
When the feet of the priests carrying the ark of the LORD, the Lord of the whole earth, touch the water of the Jordan, the water coming downstream toward you will stop flowing and pile up.”
So when the people left their tents to cross the Jordan, the priests carrying the ark of the covenant went ahead of them.
When the ones carrying the ark reached the Jordan and the feet of the priests carrying the ark touched the surface of the water–(the Jordan is at flood stage all during harvest time)–
the water coming downstream toward them stopped flowing. It piled up far upstream at Adam(the city near Zarethan); there was no water at all flowing to the sea of the rift valley(the Salt Sea). The people crossed the river opposite Jericho.
The priests carrying the ark of the covenant of the LORD stood firmly on dry ground in the middle of the Jordan. All Israel crossed over on dry ground until the entire nation was on the other side.
4
Israel Commemorates the Crossing When the entire nation was on the other side, the LORD told Joshua,
“Select for yourselves twelve men from the people, one per tribe.
Instruct them,‘Pick up twelve stones from the middle of the Jordan, from the very place where the priests stand firmly, and carry them over with you and put them in the place where you camp tonight.’”
Joshua summoned the twelve men he had appointed from the Israelites, one per tribe.
Joshua told them,“Go in front of the ark of the LORD your God to the middle of the Jordan. Each of you is to put a stone on his shoulder, according to the number of the Israelite tribes.
The stones will be a reminder to you. When your children ask someday,‘Why are these stones important to you?’
tell them how the water of the Jordan stopped flowing before the ark of the covenant of the LORD. When it crossed the Jordan, the water of the Jordan stopped flowing. These stones will be a lasting memorial for the Israelites.”
The Israelites did just as Joshua commanded. They picked up twelve stones, according to the number of the Israelite tribes, from the middle of the Jordan as the LORD had instructed Joshua. They carried them over with them to the camp and put them there.
Joshua also set up twelve stones in the middle of the Jordan in the very place where the priests carrying the ark of the covenant stood. They remain there to this very day.
Now the priests carrying the ark of the covenant were standing in the middle of the Jordan until everything the Lord had commanded Joshua to tell the people was accomplished, in accordance with all that Moses had commanded Joshua. The people went across quickly,
and when all the people had finished crossing, the ark of the LORD and the priests crossed as the people looked on.
The Reubenites, Gadites, and the half-tribe of Manasseh crossed over armed for battle ahead of the Israelites, just as Moses had instructed them.
About forty thousand battle-ready troops marched past the LORD to fight on the rift valley plains of Jericho.
That day the LORD brought honor to Joshua before all Israel. They respected him all his life, just as they had respected Moses.
The LORD told Joshua,
“Instruct the priests carrying the ark of the covenantal laws to come up from the Jordan.”
So Joshua instructed the priests,“Come up from the Jordan!”
The priests carrying the ark of the covenant of the LORD came up from the middle of the Jordan, and as soon as they set foot on dry land, the water of the Jordan flowed again and returned to flood stage.
The people went up from the Jordan on the tenth day of the first month and camped in Gilgal on the eastern border of Jericho.
Now Joshua set up in Gilgal the twelve stones they had taken from the Jordan.
He told the Israelites,“When your children someday ask their fathers,‘What do these stones represent?’
explain to your children,‘Israel crossed the Jordan River on dry ground.’
For the LORD your God dried up the water of the Jordan before you while you crossed over. It was just like when the LORD your God dried up the Red Sea before us while we crossed it.
He has done this so all the nations of the earth might recognize the LORD’s power and so you might always obey the LORD your God.”
5
When all the Amorite kings on the west side of the Jordan and all the Canaanite kings along the seacoast heard how the LORD had dried up the water of the Jordan before the Israelites while they crossed, they lost their courage and could not even breathe for fear of the Israelites.
A New Generation is Circumcised At that time the LORD told Joshua,“Make flint knives and circumcise the Israelites once again.”
So Joshua made flint knives and circumcised the Israelites on the Hill of the Foreskins.
This is why Joshua had to circumcise them: All the men old enough to fight when they left Egypt died on the journey through the wilderness after they left Egypt.
Now all the men who left were circumcised, but all the sons born on the journey through the wilderness after they left Egypt were uncircumcised.
Indeed, for forty years the Israelites traveled through the wilderness until all the men old enough to fight when they left Egypt, the ones who had disobeyed the LORD, died off. For the LORD had sworn a solemn oath to them that he would not let them see the land he had sworn by oath to their ancestors to give them, a land rich in milk and honey.
He replaced them with their sons, whom Joshua circumcised. They were uncircumcised; their fathers had not circumcised them along the way.
When all the men had been circumcised, they stayed there in the camp until they had healed.
The LORD said to Joshua,“Today I have taken away the disgrace of Egypt from you.” So that place is called Gilgal even to this day.
So the Israelites camped in Gilgal and celebrated the Passover in the evening of the fourteenth day of the month in the rift valley plains of Jericho.
They ate some of the produce of the land the day after the Passover, including unleavened bread and roasted grain.
The manna stopped appearing the day they ate some of the produce of the land; the Israelites never ate manna again. They ate from the produce of the land of Canaan that year.
Israel Conquers Jericho When Joshua was near Jericho, he looked up and saw a man standing in front of him holding a drawn sword. Joshua approached him and asked him,“Are you on our side or allied with our enemies?”
He answered,“Truly I am the commander of the LORD’s army. Now I have arrived!” Joshua bowed down with his face to the ground and asked,“What does my master want to say to his servant?”
The commander of the LORD’s army answered Joshua,“Remove your sandals from your feet, because the place where you stand is holy.” Joshua did so.
6
Now Jericho was shut tightly because of the Israelites. No one was allowed to leave or enter.
The LORD told Joshua,“See, I am about to defeat Jericho for you, along with its king and its warriors.
Have all the warriors march around the city one time; do this for six days.
Have seven priests carry seven rams’ horns in front of the ark. On the seventh day march around the city seven times, while the priests blow the horns.
When you hear the signal from the ram’s horn, have the whole army give a loud battle cry. Then the city wall will collapse and the warriors should charge straight ahead.”
So Joshua son of Nun summoned the priests and instructed them,“Pick up the ark of the covenant, and seven priests must carry seven rams’ horns in front of the ark of the LORD.”
And he told the army,“Move ahead and march around the city, with armed troops going ahead of the ark of the LORD.”
When Joshua gave the army its orders, the seven priests carrying the seven rams’ horns before the LORD moved ahead and blew the horns as the ark of the covenant of the LORD followed behind.
Armed troops marched ahead of the priests blowing the horns, while the rear guard followed along behind the ark blowing rams’ horns.
Now Joshua had instructed the army,“Do not give a battle cry or raise your voices; say nothing until the day I tell you,‘Give the battle cry.’ Then give the battle cry!”
So Joshua made sure they marched the ark of the LORD around the city one time. Then they went back to the camp and spent the night there.
Bright and early the next morning Joshua had the priests pick up the ark of the LORD.
The seven priests carrying the seven rams’ horns before the ark of the LORD marched along blowing their horns. Armed troops marched ahead of them, while the rear guard followed along behind the ark of the LORD blowing rams’ horns.
They marched around the city one time on the second day, then returned to the camp. They did this six days in all.
On the seventh day they were up at the crack of dawn and marched around the city as before– only this time they marched around it seven times.
The seventh time around, the priests blew the rams’ horns and Joshua told the army,“Give the battle cry, for the LORD is handing the city over to you!
The city and all that is in it must be set apart for the LORD; only Rahab the prostitute and all who are with her in her house will live, because she hid the spies we sent.
But be careful when you are setting apart the riches for God. If you take any of it, you will make the Israelite camp subject to annihilation and cause a disaster.
All the silver and gold, as well as bronze and iron items, belong to the LORD. They must go into the LORD’s treasury.”
The rams’ horns sounded and when the army heard the signal, they gave a loud battle cry. The wall collapsed and the warriors charged straight ahead into the city and captured it.
They annihilated with the sword everything that breathed in the city, including men and women, young and old, as well as cattle, sheep, and donkeys.
Joshua told the two men who had spied on the land,“Enter the prostitute’s house and bring out the woman and all who belong to her as you promised her.”
So the young spies went and brought out Rahab, her father, mother, brothers, and all who belonged to her. They brought out her whole family and took them to a place outside the Israelite camp.
But they burned the city and all that was in it, except for the silver, gold, and bronze and iron items they put in the treasury of the LORD’s house.
Yet Joshua spared Rahab the prostitute, her father’s family, and all who belonged to her. She lives in Israel to this very day because she hid the messengers Joshua sent to spy on Jericho.
At that time Joshua made this solemn declaration:“The man who attempts to rebuild this city of Jericho will stand condemned before the LORD. He will lose his firstborn son when he lays its foundations and his youngest son when he erects its gates!”
The LORD was with Joshua and he became famous throughout the land.
7
Achan Sins and is Punished But the Israelites disobeyed the command about the city’s riches. Achan son of Carmi, son of Zabdi, son of Zerah, from the tribe of Judah, stole some of the riches. The LORD was furious with the Israelites.
Joshua sent men from Jericho to Ai(which is located near Beth Aven, east of Bethel) and instructed them,“Go up and spy on the land.” So the men went up and spied on Ai.
They returned and reported to Joshua,“Don’t send the whole army. About two or three thousand men are adequate to defeat Ai. Don’t tire out the whole army, for Ai is small.”
So about three thousand men went up, but they fled from the men of Ai.
The men of Ai killed about thirty-six of them and chased them from in front of the city gate all the way to the fissures and defeated them on the steep slope. The people’s courage melted away like water.
Joshua tore his clothes; he and the leaders of Israel lay face down on the ground before the ark of the LORD until evening and threw dirt on their heads.
Joshua prayed,“O, Sovereign LORD! Why did you bring these people across the Jordan to hand us over to the Amorites so they could destroy us? If only we had been satisfied to live on the other side of the Jordan!
O Lord, what can I say now that Israel has retreated before its enemies?
When the Canaanites and all who live in the land hear about this, they will turn against us and destroy the very memory of us from the earth. What will you do to protect your great reputation?”
The LORD responded to Joshua,“Get up! Why are you lying there face down?
Israel has sinned; they have violated my covenantal commandment! They have taken some of the riches; they have stolen them and deceitfully put them among their own possessions.
The Israelites are unable to stand before their enemies; they retreat because they have become subject to annihilation. I will no longer be with you, unless you destroy what has contaminated you.
Get up! Ritually consecrate the people and tell them this:‘Ritually consecrate yourselves for tomorrow, because this is what the LORD God of Israel has said,“You are contaminated, O Israel! You will not be able to stand before your enemies until you remove what is contaminating you.”
In the morning you must approach in tribal order. The tribe the LORD selects must approach by clans. The clan the LORD selects must approach by families. The family the LORD selects must approach man by man.
The one caught with the riches must be burned up along with all who belong to him, because he violated the LORD’s covenant and did such a disgraceful thing in Israel.’”
Bright and early the next morning Joshua made Israel approach in tribal order, and the tribe of Judah was selected.
He then made the clans of Judah approach, and the clan of the Zerahites was selected. He made the clan of the Zerahites approach, and Zabdi was selected.
He then made Zabdi’s family approach man by man and Achan son of Carmi, son of Zabdi, son of Zerah, from the tribe of Judah, was selected.
So Joshua said to Achan,“My son, honor the LORD God of Israel and give him praise! Tell me what you did; don’t hide anything from me!”
Achan told Joshua,“It is true. I have sinned against the LORD God of Israel in this way:
I saw among the goods we seized a nice robe from Babylon, two hundred silver pieces, and a bar of gold weighing fifty shekels. I wanted them, so I took them. They are hidden in the ground right in the middle of my tent with the silver underneath.”
Joshua sent messengers who ran to the tent. The things were hidden right in his tent, with the silver underneath.
They took it all from the middle of the tent, brought it to Joshua and all the Israelites, and placed it before the LORD.
Then Joshua and all Israel took Achan, son of Zerah, along with the silver, the robe, the bar of gold, his sons, daughters, ox, donkey, sheep, tent, and all that belonged to him and brought them up to the Valley of Disaster.
Joshua said,“Why have you brought disaster on us? The LORD will bring disaster on you today!” All Israel stoned him to death.(They also stoned and burned the others.)
Then they erected over him a large pile of stones(it remains to this very day) and the LORD’s anger subsided. So that place is called the Valley of Disaster to this very day.
8
Israel Conquers Ai The LORD told Joshua,“Don’t be afraid and don’t panic! Take the whole army with you and march against Ai! See, I am handing over to you the king of Ai, along with his people, city, and land.
Do to Ai and its king what you did to Jericho and its king, except you may plunder its goods and cattle. Set an ambush behind the city!”
Joshua and the whole army marched against Ai. Joshua selected thirty thousand brave warriors and sent them out at night.
He ordered them,“Look, set an ambush behind the city. Don’t go very far from the city; all of you be ready!
I and all the troops who are with me will approach the city. When they come out to fight us like before, we will retreat from them.
They will attack us until we have lured them from the city, for they will say,‘They are retreating from us like before.’ We will retreat from them.
Then you rise up from your hiding place and seize the city. The LORD your God will hand it over to you.
When you capture the city, set it on fire in keeping with the Lord’s message. See, I have given you orders.”
Joshua sent them away and they went to their hiding place west of Ai, between Bethel and Ai. Joshua spent that night with the army.
Bright and early the next morning Joshua gathered the army, and he and the leaders of Israel marched at the head of it to Ai.
All the troops that were with him marched up and drew near the city. They camped north of Ai on the other side of the valley.
He took five thousand men and set an ambush west of the city between Bethel and Ai.
The army was in position– the main army north of the city and the rear guard west of the city. That night Joshua went into the middle of the valley.
When the king of Ai saw Israel, they rushed to get up early. Then the men of the city went out to meet Israel in battle, he and all his people, at the meeting place near the rift valley. But he did not realize an ambush was waiting for him behind the city.
Joshua and all Israel pretended to be defeated by them and they retreated along the way to the wilderness.
All the reinforcements in Ai were ordered to chase them; they chased Joshua and were lured away from the city.
No men were left in Ai or Bethel; they all went out after Israel. They left the city wide open and chased Israel.
The LORD told Joshua,“Hold out toward Ai the curved sword in your hand, for I am handing the city over to you.” So Joshua held out toward Ai the curved sword in his hand.
When he held out his hand, the men waiting in ambush rose up quickly from their place and attacked. They entered the city, captured it, and immediately set it on fire.
When the men of Ai turned around, they saw the smoke from the city ascending into the sky and were so shocked they were unable to flee in any direction. In the meantime the men who were retreating to the wilderness turned against their pursuers.
When Joshua and all Israel saw that the men in ambush had captured the city and that the city was going up in smoke, they turned around and struck down the men of Ai.
At the same time the men who had taken the city came out to fight, and the men of Ai were trapped in the middle. The Israelites struck them down, leaving no survivors or refugees.
But they captured the king of Ai alive and brought him to Joshua.
When Israel had finished killing all the men of Ai who had chased them toward the wilderness(they all fell by the sword), all Israel returned to Ai and put the sword to it.
Twelve thousand men and women died that day, including all the men of Ai.
Joshua kept holding out his curved sword until Israel had annihilated all who lived in Ai.
But Israel did plunder the cattle and the goods of the city, in keeping with the LORD’s orders to Joshua.
Joshua burned Ai and made it a permanently uninhabited mound(it remains that way to this very day).
He hung the king of Ai on a tree, leaving him exposed until evening. At sunset Joshua ordered that his corpse be taken down from the tree. They threw it down at the entrance of the city gate and erected over it a large pile of stones(it remains to this very day).
Covenant Renewal Then Joshua built an altar for the LORD God of Israel on Mount Ebal,
just as Moses the LORD’s servant had commanded the Israelites. As described in the law scroll of Moses, it was made with uncut stones untouched by an iron tool. On it they offered burnt sacrifices to the LORD and sacrificed tokens of peace.
There, in the presence of the Israelites, Joshua inscribed on the stones a duplicate of the law written by Moses.
All the people, rulers, leaders, and judges were standing on either side of the ark, in front of the Levitical priests who carried the ark of the covenant of the LORD. Both resident foreigners and native Israelites were there. Half the people stood in front of Mount Gerizim and the other half in front of Mount Ebal, as Moses the LORD’s servant had previously instructed to them to do for the formal blessing ceremony.
Then Joshua read aloud all the words of the law, including the blessings and the curses, just as they are written in the law scroll.
Joshua read aloud every commandment Moses had given before the whole assembly of Israel, including the women, children, and resident foreigners who lived among them.
9
The Gibeonites Deceive Israel When the news reached all the kings on the west side of the Jordan– in the hill country, the foothills, and all along the Mediterranean coast as far as Lebanon(including the Hittites, Amorites, Canaanites, Perizzites, Hivites, and Jebusites)–
they formed an alliance to fight against Joshua and Israel.
When the residents of Gibeon heard what Joshua did to Jericho and Ai,
they did something clever. They collected some provisions and put worn-out sacks on their donkeys, along with worn-out wineskins that were ripped and patched.
They had worn-out, patched sandals on their feet and dressed in worn-out clothes. All their bread was dry and hard.
They came to Joshua at the camp in Gilgal and said to him and the men of Israel,“We have come from a distant land. Make a treaty with us.”
The men of Israel said to the Hivites,“Perhaps you live near us. So how can we make a treaty with you?”
But they said to Joshua,“We are willing to be your subjects.” So Joshua said to them,“Who are you and where do you come from?”
They told him,“Your subjects have come from a very distant land because of the reputation of the LORD your God, for we have heard the news about all he did in Egypt
and all he did to the two Amorite kings on the other side of the Jordan– King Sihon of Heshbon and King Og of Bashan in Ashtaroth.
Our leaders and all who live in our land told us,‘Take provisions for your journey and go meet them. Tell them,“We are willing to be your subjects. Make a treaty with us.”’
This bread of ours was warm when we packed it in our homes the day we started out to meet you, but now it is dry and hard.
These wineskins we filled were brand new, but look how they have ripped. Our clothes and sandals have worn out because it has been a very long journey.”
The men examined some of their provisions, but they failed to ask the LORD’s advice.
Joshua made a peace treaty with them and agreed to let them live. The leaders of the community sealed it with an oath.
Three days after they made the treaty with them, the Israelites found out they were from the local area and lived nearby.
So the Israelites set out and on the third day arrived at their cities– Gibeon, Kephirah, Beeroth, and Kiriath Jearim.
The Israelites did not attack them because the leaders of the community had sworn an oath to them in the name of the LORD God of Israel. The whole community criticized the leaders,
but all the leaders told the whole community,“We swore an oath to them in the name of the LORD God of Israel. So now we can’t hurt them!
We must let them live so we can escape the curse attached to the oath we swore to them.”
The leaders then added,“Let them live.” So they became woodcutters and water carriers for the whole community, as the leaders had decided.
Joshua summoned the Gibeonites and said to them,“Why did you trick us by saying,‘We live far away from you,’ when you really live nearby?
Now you are condemned to perpetual servitude as woodcutters and water carriers for the house of my God.”
They said to Joshua,“It was carefully reported to your subjects how the LORD your God commanded Moses his servant to assign you the whole land and to destroy all who live in the land from before you. Because of you we were terrified we would lose our lives, so we did this thing.
So now we are in your power. Do to us what you think is good and appropriate.”
Joshua did as they said; he kept the Israelites from killing them
and that day made them woodcutters and water carriers for the community and for the altar of the LORD at the divinely chosen site.(They continue in that capacity to this very day.)
10
Israel Defeats an Amorite Coalition Adoni-Zedek, king of Jerusalem, heard how Joshua captured Ai and annihilated it and its king as he did Jericho and its king. He also heard how the people of Gibeon made peace with Israel and lived among them.
All Jerusalem was terrified because Gibeon was a large city, like one of the royal cities. It was larger than Ai and all its men were warriors.
So King Adoni-Zedek of Jerusalem sent this message to King Hoham of Hebron, King Piram of Jarmuth, King Japhia of Lachish, and King Debir of Eglon:
“Come to my aid so we can attack Gibeon, for it has made peace with Joshua and the Israelites.”
So the five Amorite kings(the kings of Jerusalem, Hebron, Jarmuth, Lachish, and Eglon) and all their troops gathered together and advanced. They deployed their troops and fought against Gibeon.
The men of Gibeon sent this message to Joshua at the camp in Gilgal,“Do not abandon your subjects! Come up here quickly and rescue us! Help us! For all the Amorite kings living in the hill country are attacking us.”
So Joshua and his whole army, including the bravest warriors, marched up from Gilgal.
The LORD told Joshua,“Don’t be afraid of them, for I am handing them over to you. Not one of them can resist you.”
Joshua attacked them by surprise after marching all night from Gilgal.
The LORD routed them before Israel. Israel thoroughly defeated them at Gibeon. They chased them up the road to the pass of Beth Horon and struck them down all the way to Azekah and Makkedah.
As they fled from Israel on the slope leading down from Beth Horon, the LORD threw down on them large hailstones from the sky, all the way to Azekah. They died– in fact, more died from the hailstones than the Israelites killed with the sword.
The day the LORD delivered the Amorites over to the Israelites, Joshua prayed to the LORD before Israel:“O sun, stand still over Gibeon! O moon, over the Valley of Aijalon!”
The sun stood still and the moon stood motionless while the nation took vengeance on its enemies. The event is recorded in the Scroll of the Upright One. The sun stood motionless in the middle of the sky and did not set for about a full day.
There has not been a day like it before or since. The LORD obeyed a man, for the LORD fought for Israel!
Then Joshua and all Israel returned to the camp at Gilgal.
The five Amorite kings ran away and hid in the cave at Makkedah.
Joshua was told,“The five kings have been found hiding in the cave at Makkedah.”
Joshua said,“Roll large stones over the mouth of the cave and post guards in front of it.
But don’t you delay! Chase your enemies and catch them! Don’t allow them to retreat to their cities, for the LORD your God is handing them over to you.”
Joshua and the Israelites almost totally wiped them out, but some survivors did escape to the fortified cities.
Then the whole army safely returned to Joshua at the camp in Makkedah. No one dared threaten the Israelites.
Joshua said,“Open the cave’s mouth and bring the five kings out of the cave to me.”
They did as ordered; they brought the five kings out of the cave to him– the kings of Jerusalem, Hebron, Jarmuth, Lachish, and Eglon.
When they brought the kings out to Joshua, he summoned all the men of Israel and said to the commanders of the troops who accompanied him,“Come here and put your feet on the necks of these kings.” So they came up and put their feet on their necks.
Then Joshua said to them,“Don’t be afraid and don’t panic! Be strong and brave, for the LORD will do the same thing to all your enemies you fight.”
Then Joshua executed them and hung them on five trees. They were left hanging on the trees until evening.
At sunset Joshua ordered his men to take them down from the trees. They threw them into the cave where they had hidden and piled large stones over the mouth of the cave.(They remain to this very day.)
Joshua Launches a Southern Campaign That day Joshua captured Makkedah and put the sword to it and its king. He annihilated everyone who lived in it; he left no survivors. He did to its king what he had done to the king of Jericho.
Joshua and all Israel marched from Makkedah to Libnah and fought against it.
The LORD handed it and its king over to Israel, and Israel put the sword to all who lived there; they left no survivors. They did to its king what they had done to the king of Jericho.
Joshua and all Israel marched from Libnah to Lachish. He deployed his troops and fought against it.
The LORD handed Lachish over to Israel and they captured it on the second day. They put the sword to all who lived there, just as they had done to Libnah.
Then King Horam of Gezer came up to help Lachish, but Joshua struck him down, as well as his army, until no survivors remained.
Joshua and all Israel marched from Lachish to Eglon. They deployed troops and fought against it.
That day they captured it and put the sword to all who lived there. That day they annihilated it just as they had done to Lachish.
Joshua and all Israel marched up from Eglon to Hebron and fought against it.
They captured it and put the sword to its king, all its surrounding cities, and all who lived in it; they left no survivors. As they had done at Eglon, they annihilated it and all who lived there.
Joshua and all Israel turned to Debir and fought against it.
They captured it, its king, and all its surrounding cities and put the sword to them. They annihilated everyone who lived there; they left no survivors. They did to Debir and its king what they had done to Libnah and its king and to Hebron.
Joshua defeated the whole land, including the hill country, the Negev, the foothills, the slopes, and all their kings. He left no survivors. He annihilated everything that breathed, just as the LORD God of Israel had commanded.
Joshua conquered the area between Kadesh Barnea and Gaza and the whole region of Goshen, all the way to Gibeon.
Joshua captured in one campaign all these kings and their lands, for the LORD God of Israel fought for Israel.
Then Joshua and all Israel returned to the camp at Gilgal.
11
Israel Defeats a Northern Coalition When King Jabin of Hazor heard the news, he organized a coalition, including King Jobab of Madon, the king of Shimron, the king of Acshaph,
and the northern kings who ruled in the hill country, the rift valley south of Kinnereth, the foothills, and the heights of Dor to the west.
Canaanites came from the east and west; Amorites, Hittites, Perizzites, and Jebusites from the hill country; and Hivites from below Hermon in the area of Mizpah.
These kings came out with their armies; they were as numerous as the sand on the seashore and had a large number of horses and chariots.
All these kings gathered and joined forces at the Waters of Merom to fight Israel.
The LORD told Joshua,“Don’t be afraid of them, for about this time tomorrow I will cause all of them to lie dead before Israel. You must hamstring their horses and burn their chariots.”
Joshua and his whole army caught them by surprise at the Waters of Merom and attacked them.
The LORD handed them over to Israel and they struck them down and chased them all the way to Greater Sidon, Misrephoth Maim, and the Mizpah Valley to the east. They struck them down until no survivors remained.
Joshua did to them as the LORD had commanded him; he hamstrung their horses and burned their chariots.
At that time Joshua turned, captured Hazor, and struck down its king with the sword, for Hazor was at that time the leader of all these kingdoms.
They annihilated everyone who lived there with the sword– no one who breathed remained– and burned Hazor.
Joshua captured all these royal cities and all their kings and annihilated them with the sword, as Moses the LORD’s servant had commanded.
But Israel did not burn any of the cities located on mounds, except for Hazor; it was the only one Joshua burned.
The Israelites plundered all the goods of these cities and the cattle, but they totally destroyed all the people and allowed no one who breathed to live.
Moses the LORD’s servant passed on the LORD’s commands to Joshua, and Joshua did as he was told. He did not ignore any of the commands the LORD had given Moses.
A Summary of Israel’s Victories Joshua conquered the whole land, including the hill country, all the Negev, all the land of Goshen, the foothills, the rift valley, the hill country of Israel and its foothills,
from Mount Halak on up to Seir, as far as Baal Gad in the Lebanon Valley below Mount Hermon. He captured all their kings and executed them.
Joshua campaigned against these kings for quite some time.
No city made peace with the Israelites(except the Hivites living in Gibeon); they had to conquer all of them,
for the LORD determined to make them obstinate so they would attack Israel. He wanted Israel to annihilate them without mercy, as he had instructed Moses.
At that time Joshua attacked and eliminated the Anakites from the hill country– from Hebron, Debir, Anab, and all the hill country of Judah and Israel. Joshua annihilated them and their cities.
No Anakites were left in Israelite territory, though some remained in Gaza, Gath, and Ashdod.
Joshua conquered the whole land, just as the LORD had promised Moses, and he assigned Israel their tribal portions. Then the land was free of war.
12
Now these are the kings of the land whom the Israelites defeated and drove from their land on the east side of the Jordan, from the Arnon Valley to Mount Hermon, including all the eastern rift valley:
King Sihon of the Amorites who lived in Heshbon and ruled from Aroer(on the edge of the Arnon Valley)– including the city in the middle of the valley and half of Gilead– all the way to the Jabbok Valley bordering Ammonite territory.
His kingdom included the eastern rift valley from the Sea of Kinnereth to the sea of the rift valley(the Salt Sea), including the route to Beth Jeshimoth and the area southward below the slopes of Pisgah.
The territory of King Og of Bashan, one of the few remaining Rephaites, who lived in Ashtaroth and Edrei
and ruled over Mount Hermon, Salecah, all of Bashan to the border of the Geshurites and Maacathites, and half of Gilead as far as the border of King Sihon of Heshbon.
Moses the LORD’s servant and the Israelites defeated them and Moses the LORD’s servant assigned their land to Reuben, Gad, and the half-tribe of Manasseh.
These are the kings of the land whom Joshua and the Israelites defeated on the west side of the Jordan, from Baal Gad in the Lebanon Valley to Mount Halak on up to Seir. Joshua assigned this territory to the Israelite tribes,
including the hill country, the foothills, the rift valley, the slopes, the wilderness, and the Negev– the land of the Hittites, Amorites, Canaanites, Perizzites, Hivites, and Jebusites:
the king of Jericho(one), the king of Ai– located near Bethel–(one),
the king of Jerusalem(one), the king of Hebron(one),
the king of Jarmuth(one), the king of Lachish(one),
the king of Eglon(one), the king of Gezer(one),
the king of Debir(one), the king of Geder(one),
the king of Hormah(one), the king of Arad(one),
the king of Libnah(one), the king of Adullam(one),
the king of Makkedah(one), the king of Bethel(one),
the king of Tappuah(one), the king of Hepher(one),
the king of Aphek(one), the king of Lasharon(one),
the king of Madon(one), the king of Hazor(one),
the king of Shimron Meron(one), the king of Acshaph(one),
the king of Taanach(one), the king of Megiddo(one),
the king of Kedesh(one), the king of Jokneam near Carmel(one),
the king of Dor– near Naphath Dor–(one), the king of Goyim– near Gilgal–(one),
the king of Tirzah(one), a total of thirty-one kings.
13
The Lord Speaks to Joshua When Joshua was very old, the LORD told him,“You are very old, and a great deal of land remains to be conquered.
This is the land that remains: all the territory of the Philistines and all the Geshurites,
from the Shihor River east of Egypt northward to the territory of Ekron(it is regarded as Canaanite territory), including the area belonging to the five Philistine lords who ruled in Gaza, Ashdod, Ashkelon, Gath, and Ekron, as well as Avvite land
to the south; all the Canaanite territory, from Arah in the region of Sidon to Aphek, as far as Amorite territory;
the territory of Byblos and all Lebanon to the east, from Baal Gad below Mount Hermon to Lebo Hamath.
I will drive out before the Israelites all who live in the hill country from Lebanon to Misrephoth Maim, all the Sidonians; you be sure to parcel it out to Israel as I instructed you.
Now, divide up this land among the nine tribes and the half-tribe of Manasseh.”
Tribal Lands East of the Jordan The other half of Manasseh, Reuben, and Gad received their allotted tribal lands on east side of the Jordan, just as Moses, the LORD’s servant, had assigned them.
Their territory started from Aroer(on the edge of the Arnon Valley), included the city in the middle of the valley, the whole plain of Medeba as far as Dibon,
and all the cities of King Sihon of the Amorites who ruled in Heshbon, and ended at the Ammonite border.
Their territory also included Gilead, Geshurite and Maacathite territory, all Mount Hermon, and all Bashan to Salecah–
the whole kingdom of Og in Bashan, who ruled in Ashtaroth and Edrei.(He was one of the few remaining Rephaites.) Moses defeated them and took their lands.
But the Israelites did not conquer the Geshurites and Maacathites; Geshur and Maacah live among Israel to this very day.
However, Moses did not assign land as an inheritance to the Levites; their inheritance is the sacrificial offerings made to the LORD God of Israel, as he instructed them.
Moses assigned land to the tribe of Reuben by its clans.
Their territory started at Aroer(on the edge of the Arnon Valley) and included the city in the middle of the valley, the whole plain of Medeba,
Heshbon and all its surrounding cities on the plain, including Dibon, Bamoth Baal, Beth Baal Meon,
Jahaz, Kedemoth, Mephaath,
Kiriathaim, Sibmah, Zereth Shahar on the hill in the valley,
Beth Peor, the slopes of Pisgah, and Beth Jeshimoth.
It encompassed all the cities of the plain and the whole realm of King Sihon of the Amorites who ruled in Heshbon. Moses defeated him and the Midianite leaders Evi, Rekem, Zur, Hur, and Reba(they were subjects of Sihon and lived in his territory).
The Israelites killed Balaam son of Beor, the omen reader, along with the others.
The border of the tribe of Reuben was the Jordan. The land allotted to the tribe of Reuben by its clans included these cities and their towns.
Moses assigned land to the tribe of Gad by its clans.
Their territory included Jazer, all the cities of Gilead, and half of Ammonite territory as far as Aroer near Rabbah.
Their territory ran from Heshbon to Ramath Mizpah and Betonim, and from Mahanaim to the territory of Debir.
It included the valley of Beth Haram, Beth Nimrah, Succoth, and Zaphon, and the rest of the realm of King Sihon of Heshbon, the area east of the Jordan to the end of the Sea of Kinnereth.
The land allotted to the tribe of Gad by its clans included these cities and their towns.
Moses assigned land to the half-tribe of Manasseh by its clans.
Their territory started at Mahanaim and encompassed all Bashan, the whole realm of King Og of Bashan, including all sixty cities in Havvoth Jair in Bashan.
Half of Gilead, Ashtaroth, and Edrei, cities in the kingdom of Og in Bashan, were assigned to the descendants of Makir son of Manasseh, to half the descendants of Makir by their clans.
These are the land assignments made by Moses in the rift valley plains of Moab east of the Jordan River opposite Jericho.
However, Moses did not assign land as an inheritance to the Levites; their inheritance is the LORD God of Israel, as he instructed them.
14
Judah’s Tribal Lands The following is a record of the territory assigned to the Israelites in the land of Canaan by Eleazar the priest, Joshua son of Nun, and the Israelite tribal leaders.
The land assignments to the nine and a half tribes were made by drawing lots, as the LORD had instructed Moses.
Now Moses had assigned land to the two and a half tribes east of the Jordan, but he assigned no land to the Levites.
The descendants of Joseph were considered as two tribes, Manasseh and Ephraim. The Levites were allotted no territory, though they were assigned cities in which to live, along with the grazing areas for their cattle and possessions.
The Israelites followed the LORD’s instructions to Moses and divided up the land.
The men of Judah approached Joshua in Gilgal, and Caleb son of Jephunneh the Kenizzite said to him,“You know what the LORD said about you and me to Moses, the man of God, at Kadesh Barnea.
I was forty years old when Moses, the LORD’s servant, sent me from Kadesh Barnea to spy on the land and I brought back to him an honest report.
My countrymen who accompanied me frightened the people, but I remained loyal to the LORD my God.
That day Moses made this solemn promise:‘Surely the land on which you walked will belong to you and your descendants permanently, for you remained loyal to the LORD your God.’
So now, look, the LORD has preserved my life, just as he promised, these past forty-five years since the LORD spoke these words to Moses, during which Israel traveled through the wilderness. Now look, I am today eighty-five years old.
Today I am still as strong as when Moses sent me out. I can fight and go about my daily activities with the same energy I had then.
Now, assign me this hill country which the LORD promised me at that time! No doubt you heard at that time that the Anakites live there in large, fortified cities. But, assuming the LORD is with me, I will conquer them, as the LORD promised.”
Joshua asked God to empower Caleb son of Jephunneh and assigned him Hebron.
So Hebron remains the assigned land of Caleb son of Jephunneh the Kenizzite to this very day because he remained loyal to the LORD God of Israel.
(Hebron used to be called Kiriath Arba. Arba was a famous Anakite.) Then the land was free of war.
15
The land allotted to the tribe of Judah by its clans reached to the border of Edom, to the wilderness of Zin in the Negev far to the south.
Their southern border started at the southern tip of the Salt Sea,
extended south of the Scorpion Ascent, crossed to Zin, went up from the south to Kadesh Barnea, crossed to Hezron, went up to Addar, and turned toward Karka.
It then crossed to Azmon, extended to the Stream of Egypt, and ended at the sea. This was their southern border.
The eastern border was the Salt Sea to the mouth of the Jordan River. The northern border started north of the Salt Sea at the mouth of the Jordan,
went up to Beth Hoglah, crossed north of Beth Arabah, and went up to the Stone of Bohan son of Reuben.
It then went up to Debir from the Valley of Achor, turning northward to Gilgal(which is opposite the Pass of Adummim south of the valley), crossed to the waters of En Shemesh and extended to En Rogel.
It then went up the Valley of Ben Hinnom to the slope of the Jebusites on the south(that is, Jerusalem), going up to the top of the hill opposite the Valley of Ben Hinnom to the west, which is at the end of the Valley of the Rephaites to the north.
It then went from the top of the hill to the spring of the waters of Nephtoah, extended to the cities of Mount Ephron, and went to Baalah(that is, Kiriath Jearim).
It then turned from Baalah westward to Mount Seir, crossed to the slope of Mount Jearim on the north(that is Kesalon), descended to Beth Shemesh, and crossed to Timnah.
It then extended to the slope of Ekron to the north, went toward Shikkeron, crossed to Mount Baalah, extended to Jabneel, and ended at the sea.
The western border was the Mediterranean Sea. These were the borders of the tribe of Judah and its clans.
Caleb son of Jephunneh was assigned Kiriath Arba(that is Hebron) within the tribe of Judah, according to the LORD’s instructions to Joshua.(Arba was the father of Anak.)
Caleb drove out from there three Anakites– Sheshai, Ahiman, and Talmai, descendants of Anak.
From there he attacked the people of Debir.(Debir used to be called Kiriath Sepher.)
Caleb said,“To the man who attacks and captures Kiriath Sepher I will give my daughter Achsah as a wife.”
When Othniel son of Kenaz, Caleb’s brother, captured it, Caleb gave Achsah his daughter to him as a wife.
One time Achsah came and charmed her father so that she could ask him for some land. When she got down from her donkey, Caleb said to her,“What would you like?”
She answered,“Please give me a special present. Since you have given me land in the Negev, now give me springs of water.” So he gave her both upper and lower springs.
This is the land assigned to the tribe of Judah by its clans:
These cities were located at the southern extremity of Judah’s tribal land near the border of Edom: Kabzeel, Eder, Jagur,
Kinah, Dimonah, Adadah,
Kedesh, Hazor, Ithnan,
Ziph, Telem, Bealoth,
Hazor Hadattah, Kerioth Hezron(that is, Hazor),
Amam, Shema, Moladah,
Hazar Gaddah, Heshbon, Beth Pelet,
Hazar Shual, Beer Sheba, Biziothiah,
Baalah, Iim, Ezem,
Eltolad, Kesil, Hormah,
Ziklag, Madmannah, Sansannah,
Lebaoth, Shilhim, Ain, and Rimmon– a total of twenty-nine cities and their towns.
These cities were in the foothills: Eshtaol, Zorah, Ashnah,
Zanoah, En Gannim, Tappuah, Enam,
Jarmuth, Adullam, Socoh, Azekah,
Shaaraim, Adithaim, and Gederah(or Gederothaim)– a total of fourteen cities and their towns.
Zenan, Hadashah, Migdal Gad,
Dilean, Mizpah, Joktheel,
Lachish, Bozkath, Eglon,
Cabbon, Lahmas, Kitlish,
Gederoth, Beth Dagon, Naamah, and Makkedah– a total of sixteen cities and their towns.
Libnah, Ether, Ashan,
Iphtah, Ashnah, Nezib,
Keilah, Achzib, and Mareshah– a total of nine cities and their towns.
Ekron and its surrounding towns and settlements;
from Ekron westward, all those in the vicinity of Ashdod and their towns;
Ashdod with its surrounding towns and settlements, and Gaza with its surrounding towns and settlements, as far as the Stream of Egypt and the border at the Mediterranean Sea.
These cities were in the hill country: Shamir, Jattir, Socoh,
Dannah, Kiriath Sannah(that is, Debir),
Anab, Eshtemoh, Anim,
Goshen, Holon, and Giloh– a total of eleven cities and their towns.
Arab, Dumah, Eshan,
Janim, Beth Tappuah, Aphekah,
Humtah, Kiriath Arba(that is, Hebron), and Zior– a total of nine cities and their towns.
Maon, Carmel, Ziph, Juttah,
Jezreel, Jokdeam, Zanoah,
Kain, Gibeah, and Timnah– a total of ten cities and their towns.
Halhul, Beth Zur, Gedor,
Maarath, Beth Anoth, and Eltekon– a total of six cities and their towns.
Kiriath Baal(that is, Kiriath Jearim) and Rabbah– a total of two cities and their towns.
These cities were in the wilderness: Beth Arabah, Middin, Secacah,
Nibshan, the city of Salt, and En Gedi– a total of six cities and their towns.
The men of Judah were unable to conquer the Jebusites living in Jerusalem. The Jebusites live with the people of Judah in Jerusalem to this very day.
16
Joseph’s Tribal Lands The land allotted to Joseph’s descendants extended from the Jordan at Jericho to the waters of Jericho to the east, through the desert and on up from Jericho into the hill country of Bethel.
The southern border extended from Bethel to Luz, and crossed to Arkite territory at Ataroth.
It then descended westward to Japhletite territory, as far as the territory of lower Beth Horon and Gezer, and ended at the sea.
Joseph’s descendants, Manasseh and Ephraim, were assigned their land.
The territory of the tribe of Ephraim by its clans included the following: The border of their assigned land to the east was Ataroth Addar as far as upper Beth Horon.
It then extended on to the sea, with Micmethath on the north. It turned eastward to Taanath Shiloh and crossed it on the east to Janoah.
It then descended from Janoah to Ataroth and Naarah, touched Jericho, and extended to the Jordan River.
From Tappuah it went westward to the Valley of Kanah and ended at the sea. This is the land assigned to the tribe of Ephraim by its clans.
Also included were the cities set apart for the tribe of Ephraim within Manasseh’s territory, along with their towns.
The Ephraimites did not conquer the Canaanites living in Gezer. The Canaanites live among the Ephraimites to this very day and do hard labor as their servants.
17
The tribe of Manasseh, Joseph’s firstborn son, was also allotted land. The descendants of Makir, Manasseh’s firstborn and the father of Gilead, received land, for they were warriors. They were assigned Gilead and Bashan.
The rest of Manasseh’s descendants were also assigned land by their clans, including the descendants of Abiezer, Helek, Asriel, Shechem, Hepher, and Shemida. These are the male descendants of Manasseh son of Joseph by their clans.
Now Zelophehad son of Hepher, son of Gilead, son of Makir, son of Manasseh, had no sons, only daughters. These are the names of his daughters: Mahlah, Noah, Hoglah, Milcah, and Tirzah.
They went before Eleazar the priest, Joshua son of Nun, and the leaders and said,“The LORD told Moses to assign us land among our relatives.” So Joshua assigned them land among their uncles, as the LORD had commanded.
Manasseh was allotted ten shares of land, in addition to the land of Gilead and Bashan east of the Jordan,
for the daughters of Manasseh were assigned land among his sons. The land of Gilead belonged to the rest of the descendants of Manasseh.
The border of Manasseh went from Asher to Micmethath which is near Shechem. It then went south toward those who live by En Tappuah.
(The land of Tappuah belonged to Manasseh, but Tappuah, located on the border of Manasseh, belonged to the tribe of Ephraim.)
The border then descended southward to the Valley of Kanah. Ephraim was assigned cities there among the cities of Manasseh, but the border of Manasseh was north of the valley and ended at the sea.
Ephraim’s territory was to the south, and Manasseh’s to the north. The sea was Manasseh’s western border and their territory touched Asher on the north and Issachar on the east.
Within Issachar’s and Asher’s territory Manasseh was assigned Beth Shean, Ibleam, the residents of Dor, the residents of En Dor, the residents of Taanach, the residents of Megiddo, the three of Napheth, and the towns surrounding all these cities.
But the men of Manasseh were unable to conquer these cities; the Canaanites managed to remain in those areas.
Whenever the Israelites were strong militarily, they forced the Canaanites to do hard labor, but they never totally conquered them.
The descendants of Joseph said to Joshua,“Why have you assigned us only one tribal allotment? After all, we have many people, for until now the LORD has enabled us to increase in number.”
Joshua replied to them,“Since you have so many people, go up into the forest and clear out a place to live in the land of the Perizzites and Rephaites, for the hill country of Ephraim is too small for you.”
The descendants of Joseph said,“The whole hill country is inadequate for us, and the Canaanites living down in the valley in Beth Shean and its surrounding towns and in the Valley of Jezreel have chariots with iron-rimmed wheels.”
Joshua said to the family of Joseph– to both Ephraim and Manasseh:“You have many people and great military strength. You will not have just one tribal allotment.
The whole hill country will be yours; though it is a forest, you can clear it and it will be entirely yours. You can conquer the Canaanites, though they have chariots with iron-rimmed wheels and are strong.”
18
The Tribes Meet at Shiloh The entire Israelite community assembled at Shiloh and there they set up the tent of meeting. Though they had subdued the land,
seven Israelite tribes had not been assigned their allotted land.
So Joshua said to the Israelites:“How long do you intend to put off occupying the land the LORD God of your ancestors has given you?
Pick three men from each tribe. I will send them out to walk through the land and make a map of it for me.
Divide it into seven regions. Judah will stay in its territory in the south, and the family of Joseph in its territory in the north.
But as for you, map out the land into seven regions and bring it to me. I will draw lots for you here before the LORD our God.
But the Levites will not have an allotted portion among you, for their inheritance is to serve the LORD. Gad, Reuben, and the half-tribe of Manasseh have already received their allotted land east of the Jordan which Moses the LORD’s servant assigned them.”
When the men started out, Joshua told those going to map out the land,“Go, walk through the land, map it out, and return to me. Then I will draw lots for you before the LORD here in Shiloh.”
The men journeyed through the land and mapped it and its cities out into seven regions on a scroll. Then they came to Joshua at the camp in Shiloh.
Joshua drew lots for them in Shiloh before the LORD and divided the land among the Israelites according to their allotted portions.
Benjamin’s Tribal Lands The first lot belonged to the tribe of Benjamin by its clans. Their allotted territory was between Judah and Joseph.
Their northern border started at the Jordan, went up to the slope of Jericho on the north, ascended westward to the hill country, and extended to the wilderness of Beth Aven.
It then crossed from there to Luz, to the slope of Luz to the south(that is, Bethel), and descended to Ataroth Addar located on the hill that is south of lower Beth Horon.
It then turned on the west side southward from the hill near Beth Horon on the south and extended to Kiriath Baal(that is, Kiriath Jearim), a city belonging to the tribe of Judah. This is the western border.
The southern side started on the edge of Kiriath Jearim and extended westward to the spring of the waters of Nephtoah.
The border then descended to the edge of the hill country near the Valley of Ben Hinnom located in the Valley of the Rephaites to the north. It descended through the Valley of Hinnom to the slope of the Jebusites to the south and then down to En Rogel.
It went northward, extending to En Shemesh and Geliloth opposite the Pass of Adummim, and descended to the Stone of Bohan son of Reuben.
It crossed to the slope in front of the rift valley to the north and descended into the rift valley.
It then crossed to the slope of Beth Hoglah to the north and ended at the northern tip of the Salt Sea at the mouth of the Jordan River. This was the southern border.
The Jordan River borders it on the east. These were the borders of the land assigned to the tribe of Benjamin by its clans.
These cities belonged to the tribe of Benjamin by its clans: Jericho, Beth Hoglah, Emek Keziz,
Beth Arabah, Zemaraim, Bethel,
Avvim, Parah, Ophrah,
Kephar Ammoni, Ophni, and Geba– a total of twelve cities and their towns.
Gibeon, Ramah, Beeroth,
Mizpah, Kephirah, Mozah,
Rekem, Irpeel, Taralah,
Zelah, Haeleph, the Jebusite city(that is, Jerusalem), Gibeah, and Kiriath– a total of fourteen cities and their towns. This was the land assigned to the tribe of Benjamin by its clans.
19
Simeon’s Tribal Lands The second lot belonged to the tribe of Simeon by its clans. Their assigned land was in the middle of Judah’s assigned land.
Their assigned land included Beer Sheba, Moladah,
Hazar Shual, Balah, Ezem,
Eltolad, Bethul, Hormah,
Ziklag, Beth Marcaboth, Hazar Susah,
Beth Lebaoth, and Sharuhen– a total of thirteen cities and their towns,
Ain, Rimmon, Ether, and Ashan– a total of four cities and their towns,
as well as all the towns around these cities as far as Baalath Beer(Ramah of the Negev). This was the land assigned to the tribe of Simeon by its clans.
Simeon’s assigned land was taken from Judah’s allotted portion, for Judah’s territory was too large for them; so Simeon was assigned land within Judah.
Zebulun’s Tribal Lands The third lot belonged to the tribe of Zebulun by its clans. The border of their territory extended to Sarid.
Their border went up westward to Maralah and touched Dabbesheth and the valley near Jokneam.
From Sarid it turned eastward to the territory of Kisloth Tabor, extended to Daberath, and went up to Japhia.
From there it crossed eastward to Gath Hepher and Eth Kazin and extended to Rimmon, turning toward Neah.
It then turned on the north to Hannathon and ended at the Valley of Iphtah El.
Their territory included Kattah, Nahalal, Shimron, Idalah, and Bethlehem; in all they had twelve cities and their towns.
This was the land assigned to the tribe of Zebulun by its clans, including these cities and their towns.
Issachar’s Tribal Lands The fourth lot belonged to the tribe of Issachar by its clans.
Their assigned land included Jezreel, Kesulloth, Shunem,
Hapharaim, Shion, Anaharath,
Rabbith, Kishion, Ebez,
Remeth, En Gannim, En Haddah and Beth Pazzez.
Their border touched Tabor, Shahazumah, and Beth Shemesh, and ended at the Jordan. They had sixteen cities and their towns.
This was the land assigned to the tribe of Issachar by its clans, including the cities and their towns.
Asher’s Tribal Lands The fifth lot belonged to the tribe of Asher by its clans.
Their territory included Helkath, Hali, Beten, Acshaph,
Alammelech, Amad, and Mishal. Their border touched Carmel to the west and Shihor Libnath.
It turned eastward toward Beth Dagon, touched Zebulun and the Valley of Iphtah El to the north, as well as Beth Emek and Neiel, and extended to Cabul on the north
and on to Ebron, Rehob, Hammon, and Kanah, as far as Greater Sidon.
It then turned toward Ramah as far as the fortified city of Tyre, turned to Hosah, and ended at the sea near Hebel, Achzib,
Umah, Aphek, and Rehob. In all they had twenty-two cities and their towns.
This was the land assigned to the tribe of Asher by its clans, including these cities and their towns.
Naphtali’s Tribal Lands The sixth lot belonged to the tribe of Naphtali by its clans.
Their border started at Heleph and the oak of Zaanannim, went to Adami Nekeb, Jabneel and on to Lakkum, and ended at the Jordan River.
It turned westward to Aznoth Tabor, extended from there to Hukok, touched Zebulun on the south, Asher on the west, and the Jordan on the east.
The fortified cities included Ziddim, Zer, Hammath, Rakkath, Kinnereth,
Adamah, Ramah, Hazor,
Kedesh, Edrei, En Hazor,
Yiron, Migdal El, Horem, Beth Anath, and Beth Shemesh. In all they had nineteen cities and their towns.
This was the land assigned to the tribe of Naphtali by its clans, including the cities and their towns.
Dan’s Tribal Lands The seventh lot belonged to the tribe of Dan by its clans.
Their assigned land included Zorah, Eshtaol, Ir Shemesh,
Shaalabbin, Aijalon, Ithlah,
Elon, Timnah, Ekron,
Eltekeh, Gibbethon, Baalath,
Jehud, Bene Berak, Gath Rimmon,
the waters of Jarkon, and Rakkon, including the territory in front of Joppa.
(The Danites failed to conquer their territory, so they went up and fought with Leshem and captured it. They put the sword to it, took possession of it, and lived in it. They renamed it Dan after their ancestor.)
This was the land assigned to the tribe of Dan by its clans, including these cities and their towns.
Joshua Receives Land When they finished dividing the land into its regions, the Israelites gave Joshua son of Nun some land.
As the LORD had instructed, they gave him the city he requested– Timnath Serah in the Ephraimite hill country. He built up the city and lived in it.
These are the land assignments which Eleazar the priest, Joshua son of Nun, and the Israelite tribal leaders made by drawing lots in Shiloh before the LORD at the entrance of the tent of meeting. So they finished dividing up the land.
20
Israel Designates Cities of Refuge The LORD instructed Joshua:
“Have the Israelites select the cities of refuge that I told you about through Moses.
Anyone who accidentally kills someone can escape there; these cities will be a place of asylum from the avenger of blood.
The one who committed manslaughter should escape to one of these cities, stand at the entrance of the city gate, and present his case to the leaders of that city. They should then bring him into the city, give him a place to stay, and let him live there.
When the avenger of blood comes after him, they must not hand over to him the one who committed manslaughter, for he accidentally killed his fellow man without premeditation.
He must remain in that city until his case is decided by the assembly and the high priest dies. Then the one who committed manslaughter may return home to the city from which he escaped.”
So they selected Kedesh in Galilee in the hill country of Naphtali, Shechem in the hill country of Ephraim, and Kiriath Arba(that is, Hebron) in the hill country of Judah.
Beyond the Jordan east of Jericho they selected Bezer in the wilderness on the plain belonging to the tribe of Reuben, Ramoth in Gilead belonging to the tribe of Gad, and Golan in Bashan belonging to the tribe of Manasseh.
These were the cities of refuge appointed for all the Israelites and for resident foreigners living among them. Anyone who accidentally killed someone could escape there and not be executed by the avenger of blood, at least until his case was reviewed by the assembly.
21
Levitical Cities The tribal leaders of the Levites went before Eleazar the priest and Joshua son of Nun and the Israelite tribal leaders
in Shiloh in the land of Canaan and said,“The LORD told Moses to assign us cities in which to live along with the grazing areas for our cattle.”
So the Israelites assigned these cities and their grazing areas to the Levites from their own holdings, as the LORD had instructed.
The first lot belonged to the Kohathite clans. The Levites who were descendants of Aaron the priest were allotted thirteen cities from the tribes of Judah, Simeon, and Benjamin.
The rest of Kohath’s descendants were allotted ten cities from the clans of the tribe of Ephraim, and from the tribe of Dan and the half-tribe of Manasseh.
Gershon’s descendants were allotted thirteen cities from the clans of the tribe of Issachar, and from the tribes of Asher and Naphtali and the half-tribe of Manasseh in Bashan.
Merari’s descendants by their clans were allotted twelve cities from the tribes of Reuben, Gad, and Zebulun.
So the Israelites assigned to the Levites by lot these cities and their grazing areas, as the LORD had instructed Moses.
They assigned from the tribes of Judah and Simeon the cities listed below.
They were assigned to the Kohathite clans of the Levites who were descendants of Aaron, for the first lot belonged to them.
They assigned them Kiriath Arba(Arba was the father of Anak), that is, Hebron, in the hill country of Judah, along with its surrounding grazing areas.
(Now the city’s fields and surrounding towns they had assigned to Caleb son of Jephunneh as his property.)
So to the descendants of Aaron the priest they assigned Hebron(a city of refuge for one who committed manslaughter), Libnah,
Jattir, Eshtemoa,
Holon, Debir,
Ain, Juttah, and Beth Shemesh, along with the grazing areas of each– a total of nine cities taken from these two tribes.
From the tribe of Benjamin they assigned Gibeon, Geba,
Anathoth, and Almon, along with the grazing areas of each– a total of four cities.
The priests descended from Aaron received thirteen cities and their grazing areas.
The rest of the Kohathite clans of the Levites were allotted cities from the tribe of Ephraim.
They assigned them Shechem(a city of refuge for one who committed manslaughter) in the hill country of Ephraim, Gezer,
Kibzaim, and Beth Horon, along with the grazing areas of each– a total of four cities.
From the tribe of Dan they assigned Eltekeh, Gibbethon,
Aijalon, and Gath Rimmon, along with the grazing areas of each– a total of four cities.
From the half-tribe of Manasseh they assigned Taanach and Gath Rimmon, along with the grazing areas of each– a total of two cities.
The rest of the Kohathite clans received ten cities and their grazing areas.
They assigned to the Gershonite clans of the Levites the following cities: from the half-tribe of Manasseh: Golan in Bashan(a city of refuge for one who committed manslaughter) and Beeshtarah, along with the grazing areas of each– a total of two cities;
from the tribe of Issachar: Kishon, Daberath,
Jarmuth, and En Gannim, along with the grazing areas of each– a total of four cities;
from the tribe of Asher: Mishal, Abdon,
Helkath, and Rehob, along with the grazing areas of each– a total of four cities;
from the tribe of Naphtali: Kedesh in Galilee(a city of refuge for one who committed manslaughter), Hammoth Dor, and Kartan, along with the grazing areas of each– a total of three cities.
The Gershonite clans received thirteen cities and their grazing areas.
They assigned to the Merarite clans(the remaining Levites) the following cities: from the tribe of Zebulun: Jokneam, Kartah,
Dimnah, and Nahalal, along with the grazing areas of each– a total of four cities;
from the tribe of Reuben: Bezer, Jahaz,
Kedemoth, and Mephaath, along with the grazing areas of each– a total of four cities;
from the tribe of Gad: Ramoth in Gilead(a city of refuge for one who committed manslaughter), Mahanaim,
Heshbon, and Jazer, along with the grazing areas of each– a total of four cities.
The Merarite clans(the remaining Levites) were allotted twelve cities.
The Levites received within the land owned by the Israelites forty-eight cities in all and their grazing areas.
Each of these cities had grazing areas around it; they were alike in this regard.
So the LORD gave Israel all the land he had solemnly promised to their ancestors, and they conquered it and lived in it.
The LORD made them secure, in fulfillment of all he had solemnly promised their ancestors. None of their enemies could resist them. The LORD handed all their enemies over to them.
Not one of the LORD’s faithful promises to the family of Israel was left unfulfilled; every one was realized.
22
Joshua Sends Home the Eastern Tribes Then Joshua summoned the Reubenites, Gadites, and the half-tribe of Manasseh
and told them:“You have carried out all the instructions of Moses the LORD’s servant, and you have obeyed all I have told you.
You have not abandoned your fellow Israelites this entire time, right up to this very day. You have completed the task given you by the LORD your God.
Now the LORD your God has made your fellow Israelites secure, just as he promised them. So now you may turn around and go to your homes in your own land which Moses the LORD’s servant assigned to you east of the Jordan.
But carefully obey the commands and instructions Moses the LORD’s servant gave you. Love the LORD your God, follow all his instructions, obey his commands, be loyal to him, and serve him with all your heart and being!”
Joshua rewarded them and sent them on their way; they returned to their homes.
(Now to one half-tribe of Manasseh, Moses had assigned land in Bashan; and to the other half Joshua had assigned land on the west side of the Jordan with their fellow Israelites.) When Joshua sent them home, he rewarded them,
saying,“Take home great wealth, a lot of cattle, silver, gold, bronze, iron, and a lot of clothing. Divide up the goods captured from your enemies with your brothers.”
So the Reubenites, Gadites, and half-tribe of Manasseh left the Israelites in Shiloh in the land of Canaan and headed home to their own land in Gilead, which they acquired by the LORD’s command through Moses.
Civil War is Averted The Reubenites, Gadites, and half-tribe of Manasseh came to Geliloth near the Jordan in the land of Canaan and built there, near the Jordan, an impressive altar.
The Israelites received this report:“Look, the Reubenites, Gadites, and half-tribe of Manasseh have built an altar at the entrance to the land of Canaan, at Geliloth near the Jordan on the Israelite side.”
When the Israelites heard this, the entire Israelite community assembled at Shiloh to launch an attack against them.
The Israelites sent Phinehas, son of Eleazar, the priest, to the land of Gilead to the Reubenites, Gadites, and the half-tribe of Manasseh.
He was accompanied by ten leaders, one from each of the Israelite tribes, each one a family leader among the Israelite clans.
They went to the land of Gilead to the Reubenites, Gadites, and the half-tribe of Manasseh, and said to them:
“The entire community of the LORD says,‘Why have you disobeyed the God of Israel by turning back today from following the LORD? You built an altar for yourselves and have rebelled today against the LORD.
The sin we committed at Peor was bad enough. To this very day we have not purified ourselves; it even brought a plague on the community of the LORD.
Now today you dare to turn back from following the LORD! You are rebelling today against the LORD; tomorrow he may break out in anger against the entire community of Israel.
But if your own land is impure, cross over to the LORD’s own land, where the LORD himself lives, and settle down among us. But don’t rebel against the LORD or us by building for yourselves an altar aside from the altar of the LORD our God.
When Achan son of Zerah disobeyed the command about the city’s riches, the entire Israelite community was judged, though only one man had sinned. He most certainly died for his sin!’”
The Reubenites, Gadites, and the half-tribe of Manasseh answered the leaders of the Israelite clans:
“El, God, the LORD! El, God, the LORD! He knows the truth! Israel must also know! If we have rebelled or disobeyed the LORD, don’t spare us today!
If we have built an altar for ourselves to turn back from following the LORD by making burnt sacrifices and grain offerings on it, or by offering tokens of peace on it, the LORD himself will punish us.
We swear we have done this because we were worried that in the future your descendants would say to our descendants,‘What relationship do you have with the LORD God of Israel?
The LORD made the Jordan a boundary between us and you Reubenites and Gadites. You have no right to worship the LORD.’ In this way your descendants might cause our descendants to stop obeying the LORD.
So we decided to build this altar, not for burnt offerings and sacrifices,
but as a reminder to us and you, and to our descendants who follow us, that we will honor the LORD in his very presence with burnt offerings, sacrifices, and tokens of peace. Then in the future your descendants will not be able to say to our descendants,‘You have no right to worship the LORD.’
We said,‘If in the future they say such a thing to us or to our descendants, we will reply,“See the model of the LORD’s altar that our ancestors made, not for burnt offerings or sacrifices, but as a reminder to us and you.”’
Far be it from us to rebel against the LORD by turning back today from following after the LORD by building an altar for burnt offerings, sacrifices, and tokens of peace aside from the altar of the LORD our God located in front of his dwelling place!”
When Phinehas the priest and the community leaders and Israel’s clan leaders who accompanied him heard the defense of the Reubenites, Gadites, and the Manassehites, they were satisfied.
Phinehas, son of Eleazar, the priest, said to the Reubenites, Gadites, and the Manassehites,“Today we know that the LORD is among us, because you have not disobeyed the LORD in this. Now you have rescued the Israelites from the LORD’s judgment.”
Phinehas, son of Eleazar, the priest, and the leaders left the Reubenites and Gadites in the land of Gilead and reported back to the Israelites in the land of Canaan.
The Israelites were satisfied with their report and gave thanks to God. They said nothing more about launching an attack to destroy the land in which the Reubenites and Gadites lived.
The Reubenites and Gadites named the altar,“Surely it is a Reminder to us that the LORD is God.”
23
Joshua Challenges Israel to be Faithful A long time passed after the LORD made Israel secure from all their enemies, and Joshua was very old.
So Joshua summoned all Israel, including the elders, rulers, judges, and leaders, and told them:“I am very old.
You saw everything the LORD your God did to all these nations on your behalf, for the LORD your God fights for you.
See, I have parceled out to your tribes these remaining nations, from the Jordan to the Mediterranean Sea in the west, including all the nations I defeated.
The LORD your God will drive them out from before you and remove them, so you can occupy their land as the LORD your God promised you.
Be very strong! Carefully obey all that is written in the law scroll of Moses so you won’t swerve from it to the right or the left,
or associate with these nations that remain near you. You must not invoke or make solemn declarations by the names of their gods! You must not worship or bow down to them!
But you must be loyal to the LORD your God, as you have been to this very day.
“The LORD drove out from before you great and mighty nations; no one has been able to resist you to this very day.
One of you makes a thousand run away, for the LORD your God fights for you as he promised you he would.
Watch yourselves carefully! Love the LORD your God!
But if you ever turn away and make alliances with these nations that remain near you, and intermarry with them and establish friendly relations with them,
know for certain that the LORD our God will no longer drive out these nations from before you. They will trap and ensnare you; they will be a whip that tears your sides and thorns that blind your eyes until you disappear from this good land the LORD your God gave you.
“Look, today I am about to die. You know with all your heart and being that not even one of all the faithful promises the LORD your God made to you is left unfulfilled; every one was realized– not one promise is unfulfilled!
But in the same way every faithful promise the LORD your God made to you has been realized, it is just as certain, if you disobey, that the LORD will bring on you every judgment until he destroys you from this good land which the LORD your God gave you.
If you violate the covenantal laws of the LORD your God which he commanded you to keep, and follow, worship, and bow down to other gods, the LORD will be very angry with you and you will disappear quickly from the good land which he gave to you.”
24
Israel Renews its Commitment to the Lord Joshua assembled all the Israelite tribes at Shechem. He summoned Israel’s elders, rulers, judges, and leaders, and they appeared before God.
Joshua told all the people,“This is what the LORD God of Israel has said:‘In the distant past your ancestors lived beyond the Euphrates River, including Terah the father of Abraham and Nahor. They worshiped other gods,
but I took your father Abraham from beyond the Euphrates and brought him into the entire land of Canaan. I made his descendants numerous; I gave him Isaac,
and to Isaac I gave Jacob and Esau. To Esau I assigned Mount Seir, while Jacob and his sons went down to Egypt.
I sent Moses and Aaron, and I struck Egypt down when I intervened in their land. Then I brought you out.
When I brought your fathers out of Egypt, you arrived at the sea. The Egyptians chased your fathers with chariots and horsemen to the Red Sea.
Your fathers cried out for help to the LORD; he made the area between you and the Egyptians dark, and then drowned them in the sea. You witnessed with your very own eyes what I did in Egypt. You lived in the wilderness for a long time.
Then I brought you to the land of the Amorites who lived east of the Jordan. They fought with you, but I handed them over to you; you conquered their land and I destroyed them from before you.
Balak son of Zippor, king of Moab, launched an attack against Israel. He summoned Balaam son of Beor to call down judgment on you.
I refused to respond to Balaam; he kept prophesying good things about you, and I rescued you from his power.
You crossed the Jordan and came to Jericho. The leaders of Jericho, as well as the Amorites, Perizzites, Canaanites, Hittites, Girgashites, Hivites, and Jebusites, fought with you, but I handed them over to you.
I sent terror ahead of you to drive out before you the two Amorite kings. I gave you the victory; it was not by your swords or bows.
I gave you a land in which you had not worked hard; you took up residence in cities you did not build and you are eating the produce of vineyards and olive groves you did not plant.’
Now obey the LORD and worship him with integrity and loyalty. Put aside the gods your ancestors worshiped beyond the Euphrates and in Egypt and worship the LORD.
If you have no desire to worship the LORD, choose today whom you will worship, whether it be the gods whom your ancestors worshiped beyond the Euphrates, or the gods of the Amorites in whose land you are living. But I and my family will worship the LORD.
The people responded,“Far be it from us to abandon the LORD so we can worship other gods!
For the LORD our God took us and our fathers out of slavery in the land of Egypt and performed these awesome miracles before our very eyes. He continually protected us as we traveled and when we passed through nations.
The LORD drove out from before us all the nations, including the Amorites who lived in the land. So we too will worship the LORD, for he is our God!”
Joshua warned the people,“You will not keep worshiping the LORD, for he is a holy God. He is a jealous God who will not forgive your rebellion or your sins.
If you abandon the LORD and worship foreign gods, he will turn against you; he will bring disaster on you and destroy you, though he once treated you well.”
The people said to Joshua,“No! We really will worship the LORD.
Joshua said to the people,“Do you agree to be witnesses against yourselves that you have chosen to worship the LORD?” They replied,“We are witnesses!”
Joshua said,“Now put aside the foreign gods that are among you and submit to the LORD God of Israel.”
The people said to Joshua,“We will worship the LORD our God and obey him.”
That day Joshua drew up an agreement for the people, and he established rules and regulations for them in Shechem.
Joshua wrote these words in the Law Scroll of God. He then took a large stone and set it up there under the oak tree near the LORD’s shrine.
Joshua said to all the people,“Look, this stone will be a witness against us, for it has heard everything the LORD said to us. It will be a witness against you if you deny your God.”
When Joshua dismissed the people, they went to their allotted portions of land.
An Era Ends After all this Joshua son of Nun, the LORD’s servant, died at the age of one hundred ten.
They buried him in his allotted territory in Timnath Serah in the hill country of Ephraim, north of Mount Gaash.
Israel worshiped the LORD throughout Joshua’s lifetime and as long as the elderly men who outlived him remained alive. These men had experienced firsthand everything the LORD had done for Israel.
The bones of Joseph, which the Israelites had brought up from Egypt, were buried at Shechem in the part of the field that Jacob bought from the sons of Hamor, the father of Shechem, for one hundred pieces of money. So it became the inheritance of the tribe of Joseph.
Eleazar son of Aaron died, and they buried him in Gibeah in the hill country of Ephraim, where his son Phinehas had been assigned land.