- New Vietnamese Bible 2014 2 Sa-mu-ên 2 SA-MU-ÊN 2 Sa-mu-ên 2Sa 2 SA-MU-ÊN Giới Thiệu Nối tiếp theo 1 Sa-mu-ên, sách này ghi lại triều đại của vua Đa-vít, vị vua vĩ đại nhất của toàn dân Y-sơ-ra-ên. Thoạt đầu, vua Đa-vít cai trị bộ tộc Giu-đa ở miền nam (chương 1–4), trong khi vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, cai trị các bộ tộc miền bắc. Sau khi vua Ích-bô-sết qua đời, các bộ tộc miền bắc họp lại tôn vua Đa-vít làm vua của họ. Thế là vua Đa-vít cai trị toàn dân Y-sơ-ra-ên, từ bắc vô nam (chương 5–20). Các chương 21–24 thu thập một vài biến cố xảy ra dưới triều vua Đa-vít, nhưng chưa được ghi lại trong các chương trên. 2 Sa-mu-ên cho chúng ta thấy vua Đa-vít là một người tài trí vượt bực và có đức tin lớn. Tuy nhiên vua Đa-vít cũng có những lúc yếu đuối và sa ngã. Nhưng vua Đa-vít vĩ đại ở chỗ vua biết nhận lỗi của mình: Vua xưng tội với CHÚA, được Ngài tha tội, và chấp nhận hậu quả do tội lỗi mình gây ra. Dân Y-sơ-ra-ên ghi nhớ công lao vĩ đại của vua Đa-vít và lời Đức Chúa Trời hứa Ngài sẽ lập ngôi nước vua Đa-vít vững bền mãi mãi (7:16). Sau này, khi đất nước nguy vong, dân Y-sơ-ra-ên luôn mong đợi một vị vua cứu tinh sanh ra từ dòng dõi vua Đa-vít. Đó là lý do vì sao Đức Giê-su, là Đấng Cứu Thế Đức Chúa Trời sai đến, được gọi là “Con vua Đa-vít” (Ma-thi-ơ 20:29-34; 21:9). Bố Cục 1. Vua Đa-vít cai trị xứ Giu-đa 1:1–4:12 2. Vua Đa-vít cai trị toàn nước Y-sơ-ra-ên 5:1–20:26 3. Những năm đầu 5:1–10:19 4. Vua Đa-vít và Bát-sê-ba 11:1–12:25 5. Những năm hoạn nạn 12:26–20:26 6. Phụ lục: một vài biến cố dưới triều vua Đa-vít 21:1–24:25 Đa-vít Nghe Tin Vua Sau-lơ Chết Sau khi vua Sau-lơ chết, Đa-vít cũng vừa đánh thắng quân A-ma-léc xong, trở về Xiếc-lác, ở lại đó hai ngày. Ngày thứ ba, có một người từ trại quân vua Sau-lơ đến, áo quần xé rách, đầu rắc bụi đất, khi đến gần Đa-vít, người ấy sấp mình xuống đất, vái lạy. Đa-vít hỏi: “Anh từ đâu đến?” Anh ta đáp: “Tôi vừa chạy thoát từ trại quân Y-sơ-ra-ên.” Đa-vít hỏi tiếp: “Tình hình thế nào? Anh thuật cho tôi biết.” Anh ta đáp: “Quân Y-sơ-ra-ên thua chạy khỏi chiến trường, nhiều chiến sĩ đã ngã xuống, ngay cả vua Sau-lơ và Giô-na-than, con vua, cũng đã chết.” Đa-vít gạn hỏi thanh niên đưa tin: “Sao anh biết vua Sau-lơ và Giô-na-than, con vua, đã chết?” Thanh niên đưa tin đáp: “Tình cờ tôi ở trên núi Ghinh-bô-a, thấy vua Sau-lơ tựa mình trên cây giáo, còn chiến xa và kỵ binh địch thì bám sát theo vua. Vua quay lại, thấy tôi, và gọi tôi. Tôi thưa: ‘Tâu bệ hạ, có tôi đây.’ Vua hỏi tôi: ‘Ngươi là ai?’ Tôi thưa: ‘Tâu bệ hạ, tôi là người A-ma-léc.’ Vua bảo tôi: ‘Hãy đến gần bên ta và kết liễu đời ta, vì ta bị xây xẩm, dù ta hãy còn tỉnh.’ Tôi biết vua không thể nào sống nổi sau khi ngã vì trọng thương nên tôi đến gần bên vua và kết liễu đời vua. Kế đến, tôi gỡ vương miện khỏi đầu vua và vòng đeo tay ra khỏi tay vua, mang đến đây cho chúa tôi.” Đa-vít liền nắm áo mình xé rách ra. Tất cả những người ở với chàng cũng làm y như vậy. Họ đấm ngực than khóc và kiêng ăn cho đến chiều để tỏ lòng thương tiếc vua Sau-lơ, và Giô-na-than, con vua, và đội quân của CHÚA và nhà Y-sơ-ra-ên, vì những người này đã ngã xuống ngoài trận địa. Sau đó, Đa-vít hỏi thanh niên đưa tin: “Anh gốc gác ở đâu?” Anh ta đáp: “Tôi là con một người A-ma-léc định cư trong xứ này.” Đa-vít quát lên: “Sao ngươi không sợ mà dám tra tay giết vị vua được CHÚA xức dầu?” Đa-vít gọi một trong các thuộc hạ và bảo: “Hãy đến, giết nó đi!” Trong khi người này đánh anh ta chết, Đa-vít nói: “Máu ngươi đổ lại trên đầu ngươi, vì chính miệng ngươi làm chứng chống lại ngươi khi ngươi nói: ‘Chính tôi đã kết liễu đời vị vua được CHÚA xức dầu.’ ” Đa-vít Ngâm Điếu Ca Khóc Vua Sau-lơ Và Giô-na-than Bấy giờ Đa-vít ngâm bài điếu ca này khóc vua Sau-lơ và hoàng tử Giô-na-than. Đa-vít truyền dạy cho dân Giu-đa bài điếu ca Cây Cung được ghi chép trong sách Người Công Chính: Ôi, Y-sơ-ra-ên, vinh quang ngươi, ngã chết trên đồi! Than ôi, dũng sĩ nay ngã gục! Đừng rao tin này trong thành Gát, Đừng loan tin ra trong các đường phố Ách-ca-lôn, Kẻo các cô gái dân Phi-li-tin vui mừng, Kẻo các cô gái dân không cắt bì hớn hở! Ôi, đồi núi Ghinh-bô-a, Ước gì sương móc không còn sa, mưa cũng chẳng rơi trên các ngươi nữa! Ước gì các ngươi không còn đồng ruộng phì nhiêu nữa! Vì nơi đó, thuẫn khiên các dũng sĩ bị vứt bỏ, Thuẫn khiên vua Sau-lơ không còn ai chùi dầu cho bóng nữa! Cây cung của Giô-na-than không hề rút về, Mà không vấy máu kẻ thương vong; Cây gươm của vua Sau-lơ không hề trở về vô hiệu, Nhưng lúc nào cũng dính mỡ các chiến sĩ. Ôi, vua Sau-lơ và Giô-na-than, thật đáng yêu, đáng quý! Khi sống cũng như lúc chết, Cha con chẳng hề lìa nhau! Họ nhanh hơn chim đại bàng, Dũng mãnh hơn sư tử! Hỡi các cô gái Y-sơ-ra-ên, Hãy thương khóc vua Sau-lơ! Vua đã cho các cô mặc vải điều sang trọng, Cài trang sức vàng trên áo các cô! Than ôi, dũng sĩ nay ngã gục giữa chiến trận! Giô-na-than ngã chết trên đồi! Anh Giô-na-than ơi! Vì anh, lòng tôi đau như cắt! Tôi quý mến anh vô cùng! Tình bạn của anh đối với tôi thật tuyệt vời, Hơn hẳn tình yêu của phụ nữ. Than ôi, dũng sĩ nay ngã gục! Vũ khí chiến tranh nay tan tành! Dân Giu-đa Tấn Phong Đa-vít Làm Vua Sau đó Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đi lên một thành nào trong xứ Giu-đa không?” CHÚA bảo: “Con hãy đi.” Đa-vít hỏi tiếp: “Con nên đi lên thành nào?” Ngài bảo: “Con hãy đi lên Hếp-rôn.” Đa-vít đi lên đó cùng với hai bà vợ, bà A-hi-nô-am người Gít-rê-ên và bà A-bi-ga-in, vợ góa của Na-banh người Cạt-mên. Đa-vít cũng đưa những người theo chàng cùng với gia đình họ lên định cư trong các thành vùng phụ cận Hếp-rôn. Những người thuộc bộ tộc Giu-đa đến Hếp-rôn và tại đó, họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua xứ Giu-đa. Vua Đa-vít Sai Sứ Giả Đi Gia-bết Người ta báo tin cho vua Đa-vít: “Chính dân thành Gia-bết ở Ga-la-át đã chôn cất vua Sau-lơ.” Vua Đa-vít sai sứ giả đến chào thăm hữu nghị dân thành Gia-bết ở Ga-la-át: “Cầu xin CHÚA ban phước cho anh em vì anh em đã trung thành với chúa mình là vua Sau-lơ và chôn cất vua. Giờ đây, cầu xin CHÚA đối xử với anh em theo đức thành tín và chân thật của Ngài. Chính ta đây cũng sẽ trọng thưởng anh em vì anh em đã làm việc ấy. Vậy bây giờ, anh em hãy can đảm lên, hãy tỏ ra là người có khí phách, vì chúa của anh em là vua Sau-lơ đã mất, còn ta thì dân Giu-đa đã xức dầu tấn phong ta làm vua.” Ích-bô-sết Được Tôn Làm Vua Y-sơ-ra-ên Trong khi đó, ông Áp-ne, con ông Ne và là tướng chỉ huy quân đội của vua Sau-lơ, đưa ông Ích-bô-sết2:8 Có nghĩa “người hổ nhục”, tên nguyên thủy là “Ích-ba-anh” con vua Sau-lơ, trốn sang Ma-ha-na-im. Tại đó, ông Áp-ne tôn ông Ích-bô-sết làm vua địa phận Ga-la-át, dân A-se, địa phận Gít-rê-ên, Ép-ra-im, Bên-gia-min, và toàn xứ Y-sơ-ra-ên. Ông Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, được bốn mươi tuổi khi lên ngôi, và trị vì Y-sơ-ra-ên trong hai năm. Chỉ có dân Giu-đa theo vua Đa-vít. Thời gian vua Đa-vít đóng đô ở Hếp-rôn và cai trị dân Giu-đa là bảy năm sáu tháng. Giu-đa Và Y-sơ-ra-ên Giao Chiến Tại Ghíp-ôn Một lần kia, tướng Áp-ne, con ông Ne, cùng với một đơn vị cận vệ của vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, ra đi từ Ma-ha-na-im, tiến về hướng Ghíp-ôn. Ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, cũng ra đi với một đơn vị cận vệ của vua Đa-vít. Hai phe gặp nhau tại hồ Ghíp-ôn, mỗi phe đóng một bên hồ. Ông Áp-ne đề nghị với ông Giô-áp: “Ta cho các thanh niên ra đấu sức đọ tài đi!” Ông Giô-áp đồng ý: “Được, hãy để họ đấu sức.” Các thanh niên lần lượt tiến ra, 12 người Bên-gia-min, thuộc phe vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, và 12 người thuộc phe vua Đa-vít. Mỗi người túm lấy đầu đối thủ và đâm gươm mình vào hông đối thủ, cho nên cả hai phe đều cùng nhau ngã gục. Người ta gọi nơi đó là Cánh đồng Đá Tảng2:16 Hoặc “Cánh đồng Lưỡi gươm” Cánh đồng này ở Ghíp-ôn. Tiếp theo đó, một cuộc giao tranh khốc liệt diễn ra ngay hôm ấy. Ông Áp-ne và quân Y-sơ-ra-ên bị quân của vua Đa-vít đánh bại. Ba người con của bà Xê-ru-gia cũng có mặt hôm ấy: ông Giô-áp, ông A-bi-sai, và ông A-xa-ên. Ông A-xa-ên chạy nhanh như dê rừng, nên ông chạy thẳng đuổi theo ông Áp-ne, không quay qua bên phải hoặc bên trái. Ông Áp-ne ngoái cổ lại hỏi: “Có phải A-xa-ên đó không?” Ông này đáp: “Phải.” Ông Áp-ne bảo: “Cậu hãy đuổi theo ai khác bên phải hoặc bên trái. Hãy bắt một tên lính, lột áo nó đi!” Nhưng ông A-xa-ên không chịu ngưng đuổi theo ông Áp-ne. Ông Áp-ne lại khuyên nài: “Đừng đuổi theo tôi nữa! Sao cậu lại bắt tôi phải giết cậu? Làm thể nào tôi còn nhìn mặt anh cậu là Giô-áp được?” Nhưng ông A-xa-ên không chịu quay sang phía khác nên ông Áp-ne đành phải quay mũi giáo ngược về phía sau, đâm ngay vào bụng ông A-xa-ên, xuyên thấu lưng. Ông A-xa-ên ngã xuống, chết ngay tại chỗ. Mọi người chạy đến nơi ông A-xa-ên ngã xuống chết đều dừng lại. Nhưng ông Giô-áp và ông A-bi-sai tiếp tục đuổi theo ông Áp-ne. Mặt trời vừa lặn khi họ đến đồi Am-ma, phía đông Ghi-ách trên đường vào sa mạc Ghíp-ôn. Binh sĩ thuộc bộ tộc Bên-gia-min tập hợp thành một đội ngũ chặt chẽ chung quanh ông Áp-ne và dừng lại trên đỉnh một ngọn đồi. Ông Áp-ne gọi vọng sang ông Giô-áp: “Lẽ nào chúng ta để cho gươm đao chém giết mãi sao? Ông biết rõ việc này sẽ kết thúc bi thảm dường nào! Đến bao giờ ông mới ra lệnh cho binh sĩ ngưng đuổi theo anh em mình nữa?” Ông Giô-áp đáp: “Có Đức Chúa Trời Hằng sống chứng cho tôi, nếu ông không lên tiếng, tôi quyết chắc phải đến sáng mai binh sĩ mới ngưng đuổi theo quân của ông!” Đoạn ông cho thổi tù và. Toàn quân dừng lại. Họ không đuổi theo quân Y-sơ-ra-ên nữa, và cuộc giao tranh chấm dứt. Suốt đêm ấy, ông Áp-ne và binh sĩ của ông đi xuyên qua vùng A-ra-ba,2:29 Vùng thung lũng sông Giô-đanh, bằng phẳng và khô hạn vượt qua sông Giô-đanh, tiếp tục đi suốt buổi sáng hôm sau mới về tới Ma-ha-na-im. Sau khi ngưng đuổi theo ông Áp-ne, ông Giô-áp tập hợp toàn quân lại kiểm điểm, thì thấy bên phe vua Đa-vít thiếu 19 người cộng với ông A-xa-ên. Ngược lại, binh sĩ của vua Đa-vít giết được 360 người Bên-gia-min là binh sĩ của ông Áp-ne. Họ đem xác ông A-xa-ên về Bết-lê-hem, chôn cất trong mộ của cha ông. Đoạn ông Giô-áp và binh sĩ của ông đi suốt đêm, và về đến Hếp-rôn khi trời hừng sáng. Các Con Vua Đa-vít Sanh Tại Hếp-rôn Giao tranh kéo dài giữa phe vua Sau-lơ và phe vua Đa-vít. Trong khi vua Đa-vít ngày càng vững mạnh, thì dòng dõi vua Sau-lơ ngày càng suy yếu. Tại Hếp-rôn, các bà vợ vua Đa-vít sanh được con trai cho vua. Con trưởng là Am-nôn, do bà A-hi-nô-am, người Gít-rê-ên, sanh ra. Con thứ hai là Ki-lê-áp, do bà A-bi-ga-in, vợ góa ông Na-banh, người Cạt-mên, sanh ra. Con thứ ba là Áp-sa-lôm, do bà Ma-a-ca, ái nữ vua Tan-mai, xứ Gơ-sua, sanh ra. Con thứ tư là A-đô-ni-gia, do bà Ha-ghít sanh ra; con thứ năm là Sơ-phát-gia, do bà A-bi-tanh sanh ra. Con thứ sáu là Gít-rơ-am, do bà vợ vua Đa-vít tên là Éc-la. Đó là những người con trai do các bà vợ vua Đa-vít sanh cho vua tại Hếp-rôn. Ông Áp-ne Nổi Giận Vì Bị Vua Ích-bô-sết Bắt Lỗi Trong khi chiến tranh tiếp diễn giữa triều vua Sau-lơ và triều vua Đa-vít, ông Áp-ne củng cố địa vị của mình giữa những người ủng hộ nhà Sau-lơ. Vua Sau-lơ trước kia có một nàng hầu tên là Rít-ba, con ông A-gia. Vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, trách ông Áp-ne: “Tại sao ông đi lại với nàng hầu của cha tôi?” Ông Áp-ne nghe vua Ích-bô-sết trách, giận lắm, nói: “Tôi là đầu chó của Giu-đa sao? Tôi vẫn trung thành với triều vua Sau-lơ, cha của vua, với anh em và bạn bè của vua Sau-lơ cho đến ngày nay. Tôi đã không nộp vua vào tay vua Đa-vít, thế mà bây giờ vua trách tôi về tội dính dáng đến một người đàn bà! Nguyện Đức Chúa Trời phạt Áp-ne cách nặng nề nếu tôi không làm cho vua Đa-vít theo như điều CHÚA hứa với người! Ngài đã hứa chuyển vương quyền từ nhà Sau-lơ sang nhà Đa-vít, và lập Đa-vít làm vua cai trị cả Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, từ Đan đến Bê-e-sê-ba!” Vua Ích-bô-sết không dám đáp lại ông Áp-ne một lời nào vì vua sợ ông. Ông Áp-ne Điều Đình Với Vua Đa-vít Ông Áp-ne tức khắc sai sứ đến yết kiến vua Đa-vít, tâu: “Đất nước này thuộc về ai? Xin vua lập giao ước với tôi, tôi sẽ giúp đem toàn dân Y-sơ-ra-ên quay về với vua.” Vua Đa-vít đáp: “Được, ta sẽ lập giao ước với ông. Ta chỉ xin ông một điều: ông sẽ không được vào chầu ta nếu ông không dẫn theo bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, khi ông đến xin yết kiến ta.” Vua Đa-vít cũng sai sứ đến yết kiến vua Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, tâu: “Xin vua trả Mi-canh, vợ tôi, lại cho tôi. Tôi đã cưới nàng với sính lễ một trăm bao quy đầu của người Phi-li-tin.” Vua Ích-bô-sết sai người đến nhà chồng bà là Phan-ti-ên, con ông La-ít, đem bà về. Chồng bà tiễn bà đi; ông vừa đi vừa khóc theo sau bà đến tận Ba-hu-rim. Bấy giờ ông Áp-ne bảo: “Ông trở về đi.” Ông đành quay về. Ông Áp-ne đã bàn trước với các trưởng lão Y-sơ-ra-ên: “Lâu nay, anh em vẫn ao ước được ông Đa-vít làm vua. Bây giờ là lúc anh em phải hành động. Vì CHÚA có phán về ông Đa-vít như thế này: ‘Ta sẽ dùng đầy tớ Ta là Đa-vít giải cứu dân Y-sơ-ra-ên Ta ra khỏi tay quân Phi-li-tin và khỏi tay mọi kẻ thù khác.’ ” Ông Áp-ne cũng bàn như vậy với người Bên-gia-min. Đoạn ông đi Hếp-rôn trình lên vua Đa-vít tất cả những nguyện vọng của dân Y-sơ-ra-ên và toàn thể bộ tộc Bên-gia-min. Khi ông Áp-ne đến Hếp-rôn yết kiến vua Đa-vít, ông dẫn theo hai mươi người. Vua Đa-vít mở tiệc khoản đãi ông Áp-ne và những người đi theo ông. Mãn tiệc, ông Áp-ne tâu với vua Đa-vít: “Tôi sẽ đi tập hợp toàn dân Y-sơ-ra-ên về với bệ hạ. Họ sẽ lập giao ước với bệ hạ, rồi bệ hạ sẽ cai trị toàn quốc, như bệ hạ hằng mong ước.” Vua Đa-vít cho ông Áp-ne về, và ông ra đi bình an. Ông Áp-ne Bị Ám Sát Ngay khi ấy, ông Giô-áp và binh sĩ của vua Đa-vít trở về sau một trận đột kích, mang theo nhiều chiến lợi phẩm. Lúc bấy giờ ông Áp-ne không có mặt tại Hếp-rôn với vua Đa-vít, vì vua đã cho ông về, và ông đã ra đi bình an. Khi ông Giô-áp và toàn quân về đến nơi, ông Giô-áp hay tin ông Áp-ne, con ông Ne, có đến yết kiến vua, và vua đã cho ông về, và ông đã ra đi bình an. Ông Giô-áp liền vào chầu vua, tâu: “Bệ hạ làm gì vậy? Áp-ne đến gặp bệ hạ, sao bệ hạ lại để cho nó ra về? Và nó đã đi rồi! Hẳn bệ hạ thừa biết Áp-ne, con ông Ne? Nó đến chỉ để gạt bệ hạ, để dò biết đường đi nước bước của bệ hạ, để tìm hiểu mọi việc bệ hạ làm.” Chầu vua Đa-vít xong, ông Giô-áp lui ra, và tức khắc sai sứ đuổi theo cho kịp ông Áp-ne. Tới bể nước Xi-ra, họ mời ông quay về. Vua Đa-vít chẳng hay biết gì cả. Khi ông Áp-ne về đến Hếp-rôn, ông Giô-áp dẫn ông đi tách ra một bên cổng thành như để nói chuyện riêng. Tại đó, ông Giô-áp đâm kiếm ngay vào bụng ông Áp-ne, giết ông chết để đền nợ máu cho ông A-xa-ên, em mình. Sau khi nghe biết sự việc, vua Đa-vít tuyên bố: “CHÚA biết ta và ngôi nước ta hoàn toàn vô tội trong vụ đổ máu của ông Áp-ne, con ông Ne. Ước gì máu đó đổ lại trên đầu ông Giô-áp và trên cả nhà cha ông! Ước gì dòng họ Giô-áp không hề thiếu người bị bệnh hoa liễu, hoặc bệnh phong hủi, hoặc đàn ông mà chỉ biết làm công việc của đàn bà,3:29 nt: cầm con suốt; ctd: chống nạng hoặc người chết vì gươm đao, hoặc người đói khổ thiếu ăn.” Như vậy, ông Giô-áp và anh là ông A-bi-sai đã giết chết ông Áp-ne, vì ông này đã giết chết em của họ là ông A-xa-ên trong trận Ghíp-ôn. Tang Lễ Ông Áp-ne Vua Đa-vít truyền cho ông Giô-áp và toàn quân có mặt ở đó: “Anh em hãy xé rách áo mình, quấn bao vải thô, đấm ngực than khóc đi trước cỗ đòn ông Áp-ne.” Chính vua Đa-vít cũng đi theo sau cỗ đòn đám ma. Khi chôn cất ông Áp-ne tại Hếp-rôn, vua òa lên khóc bên mộ ông Áp-ne; toàn quân đều khóc theo. Vua ngâm điếu văn khóc ông Áp-ne: “Sao Áp-ne phải chết như một kẻ điên rồ? Tay không bị trói, Chân không bị xiềng, Nhưng ông đã ngã xuống, Như người ta ngã vì bị kẻ gian ám hại!” Toàn quân tiếp tục khóc. Sau đó, toàn quân đến nài xin vua Đa-vít ăn chút gì khi còn ban ngày, nhưng vua thề: “Nguyện Đức Chúa Trời phạt ta nặng nề nếu ta nếm chút bánh hay bất cứ món gì trước khi mặt trời lặn!” Toàn quân ghi nhận điều ấy và tán thành, như toàn quân vẫn tán thành mọi điều vua làm. Ngày hôm ấy, toàn quân và toàn dân Y-sơ-ra-ên biết rằng vua không có ra lệnh ám sát tướng Áp-ne, con ông Ne. Vua nói với triều thần: “Hẳn anh em biết rằng hôm nay, một vị tướng, một vĩ nhân trong Y-sơ-ra-ên đã ngã xuống. Dù ta đây được xức dầu làm vua, ta cảm thấy yếu mềm so với những người này là con bà Xê-ru-gia; họ quá bạo tàn! Nguyện CHÚA báo trả kẻ ác xứng hiệp với lòng dạ gian ác của nó!” Vua Ích-bô-sết Bị Ám Sát Nghe tin ông Áp-ne chết tại Hếp-rôn, vua Ích-bô-sết, con trai vua Sau-lơ, rủn chí sờn lòng, và toàn dân Y-sơ-ra-ên đều kinh hãi. Vua Ích-bô-sết, con trai vua Sau-lơ, có hai sĩ quan cầm đầu đội quân du kích. Một người tên là Ba-a-na, và người kia là Rê-cáp. Cả hai đều là con ông Rim-môn, người Bê-ê-rốt, thuộc bộ tộc Bên-gia-min, vì thành Bê-ê-rốt được kể là một thành trong địa phận Bên-gia-min.4:2 Xem Giôs 18:25 Dân thành Bê-ê-rốt đã trốn đến thành Ghít-ta-dim4:3 Thành này cũng thuộc về địa phận Bên-gia-min; xem Nê 11:33 và định cư ở đó cho đến ngày nay. Ông Giô-na-than, con vua Sau-lơ, có để lại một người con trai bại hai chân, tên là Mê-phi-bô-sết.4:4 Tên nguyên thủy là Mơ-ríp-ba-anh; xem 1Sử 8:34; 9:40 Cậu bé được năm tuổi khi có người từ thành Gít-rê-ên về báo tin vua Sau-lơ và ông Giô-na-than tử trận. Chị vú nuôi ẵm cậu chạy trốn. Trong khi hấp tấp chạy trốn, chị đánh rơi cậu, cho nên cậu bị què. Rê-cáp và Ba-a-na, hai người con của ông Rim-môn người Bê-ê-rốt, lên đường và đến nhà vua Ích-bô-sết vào lúc nóng nực nhất trong ngày. Vua đang nằm ngủ trưa. Bà gác cổng đang nhặt sạn cho sạch lúa. Bà ngủ gà ngủ gật rồi ngủ luôn. Rê-cáp và anh là Ba-a-na lẻn vào bên trong nhà. Vua đang nằm ngủ trên giường, trong phòng ngủ. Chúng đâm vua chết, rồi chặt đầu vua. Chúng mang đầu vua đi suốt đêm xuyên qua vùng đồng bằng A-ra-ba. Chúng mang đầu vua Ích-bô-sết đến chầu vua Đa-vít tại Hếp-rôn và tâu: “Đây là đầu của Ích-bô-sết, con vua Sau-lơ, là kẻ thù của bệ hạ, là người tìm hại mạng sống bệ hạ. Ngày hôm nay, CHÚA đã báo thù vua Sau-lơ và dòng dõi vua cho bệ hạ.” Nhưng vua Đa-vít đáp lại Rê-cáp và anh là Ba-a-na, hai con trai của ông Rim-môn, người Bê-ê-rốt: “Có CHÚA hằng sống, là Đấng giải cứu ta khỏi mọi cảnh nguy khốn, làm chứng cho ta. Người báo cho ta biết tin vua Sau-lơ chết, tưởng rằng mình báo tin mừng, nhưng ta đã truyền bắt và xử tử nó tại Xiếc-lác! Đó là cách ta thưởng nó về tin mừng của nó. Huống chi bọn gian ác giết một người vô tội đang ngủ trên giường, ngay trong nhà mình! Ta sẽ đòi máu người đó nơi tay các ngươi, và ta sẽ diệt các ngươi khỏi mặt đất!” Vua Đa-vít truyền lệnh, quân lính liền giết chúng, chặt cả tay chân và treo chúng lên cạnh hồ nước tại Hếp-rôn. Nhưng đầu vua Ích-bô-sết thì quân lính đem chôn trong mộ của ông Áp-ne tại Hếp-rôn. Vua Đa-vít Cai Trị Toàn Nước Y-sơ-ra-ên Tất cả các bộ tộc Y-sơ-ra-ên đến Hếp-rôn chầu vua Đa-vít và tâu: “Chúng tôi đây là cốt nhục của bệ hạ. Trước kia, ngay dưới triều vua Sau-lơ, chính bệ hạ đã cầm đầu quân Y-sơ-ra-ên đi chinh chiến. CHÚA cũng đã phán với bệ hạ: ‘Chính con sẽ chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên Ta, chính con sẽ lãnh đạo dân Y-sơ-ra-ên.’ ” Tất cả các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đến Hếp-rôn chầu vua. Vua Đa-vít lập giao ước với họ tại Hếp-rôn, trước mặt CHÚA. Rồi họ xức dầu tấn phong Đa-vít làm vua Y-sơ-ra-ên. Vua Đa-vít được ba mươi tuổi khi lên ngôi, và vua trị vì bốn mươi năm. Tại Hếp-rôn, vua cai trị dân Giu-đa bảy năm sáu tháng, và tại Giê-ru-sa-lem, vua cai trị toàn thể dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa ba mươi ba năm. Vua Đa-vít Chiếm Thành Giê-ru-sa-lem Vua tiến quân lên tấn công thành Giê-ru-sa-lem. Người Giê-bút là dân địa phương nói với vua Đa-vít: “Ông không vào đây được. Ngay cả người mù và người què cũng đủ sức đẩy lui ông.” Ý họ muốn nói là: “Đa-vít không bao giờ vào đây được.” Tuy nhiên, vua Đa-vít chiếm đóng đồn Si-ôn, nay gọi là Thành Đa-vít. Lúc ấy, vua Đa-vít nói: “Người nào đánh dân Giê-bút phải chui qua cống dẫn nước ngầm, đánh người què và người mù, là những người thù ghét Đa-vít. Vì thế có câu: ‘Người mù và người què không được vào đền thờ.’ ” Vua Đa-vít ngự trong đồn và đặt tên đồn là Thành Đa-vít. Vua Đa-vít xây dựng vùng chung quanh đó, từ gò Mi-lô trở vào trong. Vua Đa-vít ngày càng vững mạnh vì CHÚA là Đức Chúa Trời Vạn Quân ở với vua. Vua Hi-ram thành Ty-rơ sai sứ giả đến thăm hữu nghị vua Đa-vít, mang theo gỗ bá hương, thợ mộc, thợ đẽo đá; và họ xây dinh thự cho vua Đa-vít. Bấy giờ vua Đa-vít nhận thức rõ rằng CHÚA đã lập vua lên cai trị dân Y-sơ-ra-ên và khiến cho ngôi nước vua được tôn trọng là vì lợi ích của dân Ngài là dân Y-sơ-ra-ên. Các Con Vua Đa-vít Sanh Tại Giê-ru-sa-lem Sau khi dời từ Hếp-rôn về Giê-ru-sa-lem, vua Đa-vít cưới thêm vợ và nàng hầu; những bà này sanh thêm con trai con gái cho vua Đa-vít. Đây là tên những người con sanh tại Giê-ru-sa-lem: Sa-mua, Sô-báp, Na-than, Sa-lô-môn, Díp-ha, Ê-li-sua, Nê-phết, Gia-phia, Ê-li-sa-ma, Ên-gia-đa, và Ê-li-phê-lết. Vua Đa-vít Chiến Thắng Quân Phi-li-tin Khi người Phi-li-tin nghe tin vua Đa-vít được xức dầu làm vua dân Y-sơ-ra-ên, toàn quân Phi-li-tin kéo lên tìm bắt vua Đa-vít. Vua Đa-vít nghe tin liền đi xuống ẩn trong đồn. Quân Phi-li-tin kéo đến và bủa ra trong thung lũng Rê-pha-im. Vua Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA: “Con có nên đi lên đánh quân Phi-li-tin không? CHÚA có giao chúng vào tay con không?” CHÚA đáp: “Con hãy đi. Chắc chắn Ta sẽ giao quân Phi-li-tin vào tay con.” Vua Đa-vít đến Ba-anh Phê-ra-xim, đánh bại chúng tại đó. Vua Đa-vít nói: “CHÚA phá vỡ hàng ngũ quân thù trước mặt tôi như nước lũ vỡ bờ.” Vì thế vua đặt tên nơi đó là Ba-anh Phê-ra-xim. Vua Đa-vít và binh sĩ đem về các thần tượng quân Phi-li-tin bỏ lại đó trong khi chạy trốn. Quân Phi-li-tin lại kéo đến và bủa ra trong thung lũng Rê-pha-im một lần nữa. Vua Đa-vít lại cầu hỏi ý CHÚA. Ngài bảo: “Con không nên đi thẳng lên, nhưng hãy đi vòng phía sau chúng và đánh bọc hậu đối ngang lùm cây dương. Ngay khi con nghe tiếng chân bước trên ngọn cây dương, con hãy tấn công ngay, vì lúc bấy giờ CHÚA ra trận đánh quân Phi-li-tin trước con.” Vua Đa-vít làm theo y như lệnh CHÚA truyền. Nhờ vậy, vua đánh đuổi được quân Phi-li-tin từ Ghê-ba đến tận Ghê-xe. Vua Đa-vít Quyết Định Dời Rương Giao Ước Về Thành Giê-ru-sa-lem Vua Đa-vít lại tập hợp toàn quân tinh nhuệ trong Y-sơ-ra-ên, số là 30,000 người. Vua dẫn toàn quân đến thành Ba-a-la trong xứ Giu-đa6:2 Gọi là thành Ki-ri-át Giê-a-rim trong 1Sa 6:21; 7:1 để thỉnh Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời về. Rương Giao Ước mang danh của CHÚA Vạn Quân. Ngài đặt ngôi của Ngài trên các thần hộ giá, trên nắp rương. Họ đặt Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời lên một cỗ xe mới, đem ra khỏi nhà ông A-bi-na-đáp ở trên đồi. Ông U-xa và ông A-hi-giô, hai người con của ông A-bi-na-đáp, dẫn chiếc xe mới đi. Họ dẫn xe ra khỏi nhà ông A-bi-na-đáp ở trên đồi, trên xe có Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời, ông U-xa đi bên cạnh rương6:4 Dịch theo LXX; Nt: chép nhảy chữ nên không có phần này và ông A-hi-giô đi trước rương. Vua Đa-vít và toàn dân Y-sơ-ra-ên vui mừng nhảy múa trước mặt CHÚA, theo tiếng đàn của đủ loại nhạc cụ bằng gỗ tùng như đàn hạc và đàn lia, có đệm theo tiếng trống con, chũm chọe, thanh la. Khi đến sân đạp lúa của Na-côn, bò vấp chân, nên ông U-xa giơ tay ra đỡ Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời. CHÚA nổi giận với ông U-xa. Đức Chúa Trời đánh phạt ông ngay tại chỗ vì cử chỉ sơ ý đó.6:7 1Sử 13:10: vì ông giơ tay ra đỡ Rương Giao Ước Ông chết ngay đó, cạnh bên Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời. Vua Đa-vít buồn bực vì CHÚA đã đánh chết ông U-xa, khiến cho dòng dõi ông bị đứt đoạn; vua gọi nơi đó là Pê-rết U-xa6:8 Nghĩa là “dòng dõi U-xa bị đứt đoạn” tên này vẫn còn cho đến nay. Ngày hôm ấy, vua Đa-vít sợ CHÚA và tự nhủ: “Làm sao tôi dám đem Rương Giao Ước của CHÚA về với tôi được?” Vua Đa-vít không muốn đem Rương Giao Ước của CHÚA về thành Đa-vít với mình nên chuyển hướng, đưa rương về nhà ông Ô-bết-Ê-đôm, quê ở thành Gát. Rương Giao Ước của CHÚA ở ba tháng trong nhà của ông Ô-bết-Ê-đôm, người thành Gát. CHÚA ban phước cho ông Ô-bết-Ê-đôm và cả gia đình ông. Rương Giao Ước Về Thành Giê-ru-sa-lem Có người báo tin cho vua Đa-vít: “Vì Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời, CHÚA có ban phước cho gia đình ông Ô-bết-Ê-đôm và mọi tài sản của ông.” Vua liền đi thỉnh Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời từ nhà ông Ô-bết-Ê-đôm lên thành Đa-vít với lễ tiệc liên hoan. Khi những người khiêng Rương Giao Ước của CHÚA đi được sáu bước, vua dâng một con bò đực béo tốt làm sinh tế. Để tôn vinh CHÚA, vua Đa-vít quấn chiếc ê-phót bằng vải lanh ngang hông, ra sức nhảy múa quay cuồng, trong khi vua và toàn dân Y-sơ-ra-ên thỉnh Rương Giao Ước của CHÚA về giữa tiếng reo mừng với tiếng tù và. Khi Rương Giao Ước của CHÚA vào thành Đa-vít, bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, nhìn qua cửa sổ, thấy vua Đa-vít nhảy múa quay cuồng trước mặt CHÚA. Bà đem lòng khinh dể vua. Người ta đem Rương Giao Ước của CHÚA đặt vào chỗ dành riêng cho rương trong lều vua Đa-vít dựng sẵn, rồi vua Đa-vít dâng lên CHÚA sinh tế toàn thiêu và sinh tế liên hoan. Khi vua Đa-vít dâng các sinh tế toàn thiêu và sinh tế liên hoan xong, vua nhân danh CHÚA Vạn Quân chúc phước cho dân. Rồi vua phân phát cho toàn dân, cho toàn thể đám đông người Y-sơ-ra-ên, cả nam lẫn nữ, mỗi người một ổ bánh mì, một miếng thịt nướng và một cái bánh nho khô. Sau đó, mọi người ai nấy về nhà mình. Vua Đa-vít cũng về nhà chúc phước cho gia đình mình. Bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, ra đón vua Đa-vít. Bà nói: “Hôm nay vua Y-sơ-ra-ên thật đã tự làm cho mình nên tôn trọng khi vua nhảy múa để lộ thân hình mình ra trước mặt bọn nữ tỳ của triều thần y như một người chẳng ra gì!” Vua Đa-vít đáp: “Ta nhảy múa để tôn vinh CHÚA, là Đấng đã chọn ta thay vì thân phụ nàng và cả gia đình thân phụ nàng. Ngài lập ta lên chỉ huy dân Y-sơ-ra-ên của CHÚA. Vì thế ta vui mừng nhảy múa để tôn vinh CHÚA. Và ta sẽ làm cho mình nên khinh hèn hơn nữa, ta sẽ tự hạ mình xuống thấp hơn nữa. Còn bọn nữ tỳ nàng vừa nhắc đến, chính họ sẽ tôn trọng ta.” Vì vậy, bà Mi-canh, ái nữ vua Sau-lơ, không có con cho đến ngày qua đời. Lời Đức Chúa Trời Hứa Ban Cho Vua Đa-vít Và Dòng Dõi Vua Sau khi vua ngự về cung, và CHÚA cho vua được an ninh mọi bề, không còn quân thù quấy nhiễu, vua nói với tiên tri Na-than: “Này, ta sống trong cung xây bằng gỗ bá hương, còn Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời lại ngự giữa các bức màn!” Ông Na-than tâu với vua: “Xin bệ hạ cứ thực hiện mọi điều bệ hạ suy tính trong lòng, vì CHÚA ở với bệ hạ.” Nhưng ngay đêm ấy, CHÚA bảo ông Na-than: “Con hãy đi nói với tôi tớ Ta là Đa-vít: ‘CHÚA phán như vầy: Con định xây đền thờ cho Ta ngự sao? Từ ngày Ta đem dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai-cập cho đến nay, Ta chưa hề ngự trong một đền thờ nào cả, nhưng Ta chỉ ngự trong lều hoặc đền tạm khi Ta đi đây đó. Bất cứ nơi nào Ta đi với toàn dân Y-sơ-ra-ên, có bao giờ Ta trách các vị lãnh đạo mà Ta đã lập lên chăn dắt dân Y-sơ-ra-ên Ta: Sao các ngươi không xây cho Ta một đền thờ bằng gỗ bá hương?’ Vậy bây giờ, con hãy bảo tôi tớ Ta là Đa-vít: ‘CHÚA Vạn Quân phán như vầy: Chính Ta đã đem con ra từ đồng cỏ, nơi con chăn chiên, và lập con lên cai trị dân Y-sơ-ra-ên Ta. Ta đã từng ở với con mọi nơi con đi, và Ta đã diệt trừ mọi kẻ thù con cho khuất mắt con. Hơn nữa, Ta sẽ ban cho con danh tiếng lẫy lừng như danh các bậc vĩ nhân trên đất. Ta sẽ ban cho dân Y-sơ-ra-ên Ta một chỗ ở, Ta sẽ cho chúng đâm rễ tại đó, để chúng sống vững vàng, không còn run sợ nữa, và bọn gian ác không còn áp bức chúng nữa như trước kia, khi Ta lập các thẩm phán cai trị dân Y-sơ-ra-ên Ta. Và Ta sẽ cho con được an ninh, không còn quân thù quấy nhiễu nữa. CHÚA báo cho con biết rằng chính CHÚA sẽ dựng nhà cho con. Khi ngày đời con đã mãn, và con nằm xuống với tổ tiên, Ta sẽ lập một người từ dòng dõi con, do chính con sanh ra, lên nối ngôi con, và Ta sẽ làm cho ngôi nước nó vững bền. Chính nó sẽ xây đền thờ cho danh Ta ngự, và Ta sẽ lập ngôi nước nó vững bền mãi mãi. Ta sẽ làm cha nó, và nó sẽ làm con Ta. Khi nó phạm lỗi, Ta sẽ sửa phạt nó như cha mẹ dùng roi đòn răn dạy con. Nhưng tình thương của Ta sẽ không rời khỏi nó như đã rời khỏi Sau-lơ mà Ta đã dẹp bỏ để con được lên ngôi. Nhà con sẽ không thiếu người nối dõi, Ta sẽ cho vương quốc con tồn tại mãi mãi, và Ta sẽ lập ngôi nước con vững bền đời đời.’ ” Tiên tri Na-than lặp lại cho vua Đa-vít nghe mọi điều đúng như lời Chúa phán trong khải tượng. Bài Cầu Nguyện Của Vua Đa-vít Bấy giờ vua Đa-vít đi vào lều, chầu trước mặt CHÚA, và thưa: “Kính lạy CHÚA là Chúa của con, con là ai, và gia đình con là gì, mà Ngài đã đưa con tới địa vị này? Ôi, lạy CHÚA là Chúa của con, dù vậy, Ngài vẫn cho đó là chuyện nhỏ mọn, và Ngài còn phán dạy con là tôi tớ Ngài về triều đại của con trong tương lai, và ôi, lạy CHÚA là Chúa của con, Ngài còn cho con nhìn thấy trước các thế hệ sắp đến. Đa-vít còn biết thưa gì với Ngài nữa? Ôi, lạy CHÚA là Chúa của con, Ngài biết tôi tớ của Ngài. Vì lời hứa của Ngài, và tùy theo ý muốn Ngài, Ngài đã thực hiện tất cả những việc lớn lao này và bày tỏ cho tôi tớ Ngài. Lạy CHÚA là Chúa của con, Ngài thật cao cả vĩ đại, vì không ai có thể sánh với Ngài, và ngoài Ngài ra, không có Đức Chúa Trời nào khác, theo như mọi điều chính tai chúng con đã nghe! Có ai giống như dân Y-sơ-ra-ên của Ngài, một dân tộc duy nhất trên đất được Đức Chúa Trời giải cứu để làm thành dân riêng của Ngài? Danh Ngài được tôn trọng khi Ngài thực hiện những việc lớn lao đáng sợ cho dân Ngài và đất của Ngài, khi Ngài đuổi những dân tộc khác và thần của họ ra khỏi đất trước mặt dân của Ngài mà Ngài đã vì chính mình Ngài giải cứu ra khỏi Ai-cập. Ngài đã lập vững dân Y-sơ-ra-ên của Ngài thành dân riêng của Ngài cho đến đời đời, và lạy CHÚA, Ngài đã trở thành Đức Chúa Trời của họ. Kính lạy CHÚA là Đức Chúa Trời, giờ đây con kính xin Ngài mãi mãi thực hiện lời Ngài đã hứa về tôi tớ Ngài và triều đại của tôi tớ Ngài. Xin Ngài làm theo như lời Ngài đã hứa. Nguyền xin danh Ngài được muôn đời ca ngợi: ‘CHÚA Vạn Quân là Đức Chúa Trời cai trị dân Y-sơ-ra-ên!’ Cầu xin Ngài lập cho vững triều đại của tôi tớ Ngài là Đa-vít! Kính lạy CHÚA Vạn Quân, Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên, vì chính Ngài đã tỏ cho tôi tớ Ngài biết rằng Ngài sẽ dựng cho con một triều đại, nên tôi tớ Ngài mới thu hết can đảm dâng lên Ngài lời cầu xin này. Kính lạy CHÚA là Chúa của con, chính Ngài là Đức Chúa Trời. Lời Ngài phán chắc chắn sẽ thành tựu, và Ngài đã hứa ban cho tôi tớ Ngài phước lành này. Giờ đây, con kính xin Ngài vui lòng ban phước cho dòng dõi của tôi tớ Ngài, để chúng còn mãi trước mặt Ngài, vì chính Ngài, ôi CHÚA là Chúa của con, đã hứa như vậy. Cầu xin Ngài mãi mãi ban phước cho triều đại của tôi tớ Ngài!” Vua Đa-vít Chiến Thắng Các Nước Lân Bang Sau đó, vua Đa-vít đánh bại người Phi-li-tin, bắt chúng phải phục tùng, và đoạt quyền bá chủ các đô thị bị lệ thuộc khỏi tay chúng. Vua cũng đánh bại người Mô-áp, và dùng dây đo chúng. Vua bắt chúng nằm rạp xuống đất, rồi cứ đo hai dây thì giết, và đủ trọn một dây thì tha cho sống. Vậy dân Mô-áp trở thành chư hầu và triều cống vua Đa-vít. Vua Đa-vít đánh bại vua Ha-đa-rê-xe, con vua Rê-hốp, nước Xô-ba;8:3 Phía bắc thành Đa-mách, thuộc nước Sy-ri khi vua này đang trên đường đến vùng sông Ơ-phơ-rát để trùng tu đài kỷ niệm8:3 Xem 1Sa 15:12; 2Sa 18:18; 1Sử 18:3; có bản dịch: “để tái lập chủ quyền” của mình. Vua Đa-vít bắt làm tù binh 1,700 kỵ binh và 20,000 bộ binh của vua Xô-ba. Vua Đa-vít cũng cho cắt gân đầu gối của tất cả những con ngựa kéo xe, chỉ để lại đủ số ngựa kéo một trăm cỗ xe thôi. Khi quân Sy-ri ở Đa-mách kéo đến tiếp viện vua Ha-đa-rê-xe nước Xô-ba, vua Đa-vít đánh bại chúng, giết được 22,000 ngàn quân. Vua Đa-vít đặt quan trấn thủ cai trị dân Sy-ri ở Đa-mách. Vậy dân Sy-ri trở thành chư hầu và triều cống vua Đa-vít. CHÚA cho vua Đa-vít đánh đâu thắng đó. Vua Đa-vít tịch thu những cái khiên8:7 Ctd: “bao đựng mũi tên” bằng vàng của các sĩ quan hầu cận vua Ha-đa-rê-xe và đem về thành Giê-ru-sa-lem. Vua Đa-vít cũng thu được rất nhiều đồng từ thành Bê-tác và thành Bê-rô-thai của vua Ha-đa-rê-xe. Vua Tô-i thành Ha-mát nghe tin vua Đa-vít đánh bại toàn quân của vua Ha-đa-rê-xe. Vua Tô-i liền sai hoàng tử Giô-ram đến thăm hữu nghị và chúc mừng vua Đa-vít đã chiến thắng vua Ha-đa-rê-xe. Thật ra, chính vua Tô-i cũng đã từng giao chiến với vua Ha-đa-rê-xe. Hoàng tử Giô-ram đem biếu vua Đa-vít những tặng phẩm bằng bạc, vàng, và đồng. Vua Đa-vít biệt riêng những tặng phẩm ấy dâng lên CHÚA, cũng như vua đã biệt riêng và dâng lên CHÚA bạc, vàng thu được từ tất cả những dân tộc bị vua chinh phục: Ê-đôm8:12 Dịch theo LXX và 1Sử 18:11-13; nt: “Sy-ri” Mô-áp, Am-môn, Phi-li-tin, A-ma-léc, và từ chiến lợi phẩm vua đoạt được của vua Ha-đa-rê-xe, con vua Rê-hốp, nước Xô-ba. Danh tiếng vua Đa-vít vang lừng. Sau khi chiến thắng quân Sy-ri trở về, vua đánh bại 18,000 quân Ê-đôm tại Thung lũng Muối. Vua đặt quan trấn thủ cai trị toàn xứ Ê-đôm. Toàn dân Ê-đôm trở thành chư hầu của vua Đa-vít. CHÚA cho vua Đa-vít đánh đâu thắng đó. Nội Các Của Vua Đa-vít Vua Đa-vít cai trị toàn nước Y-sơ-ra-ên, thi hành luật lệ cách công minh cho toàn dân. Ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, chỉ huy quân đội. Ông Giô-sa-phát, con ông A-hi-lút, làm quan thái sư.8:16 Chức vụ này có thể kiêm bộ trưởng nội vụ và ngoại vụ Ông Xa-đốc, con ông A-hi-túp, và ông A-bia-tha, con ông A-hi-mê-léc làm thầy tế lễ; ông Sê-ra-gia làm tổng thư ký. Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, chỉ huy đoàn vệ binh hoàng gia người Kê-rết và Phê-lết; và các con trai vua Đa-vít làm thầy tế lễ. Vua Đa-vít Giữ Lòng Thành Với Mê-phi-bô-sết, Con Trai Ông Giô-na-than Một hôm, vua Đa-vít hỏi: “Trong gia đình vua Sau-lơ có người nào còn sống sót không? Ta muốn giữ lòng thành với người đó vì ông Giô-na-than.” Gia-đình vua Sau-lơ trước kia có một người đầy tớ tên là Xi-ba. Người ta mời ông vào chầu vua Đa-vít. Vua hỏi ông: “Ngươi là Xi-ba phải không?” Ông thưa: “Tâu bệ hạ, tôi đây là tôi tớ bệ hạ.” Vua hỏi tiếp: “Trong gia đình vua Sau-lơ không còn người nào sao? Ta muốn giữ lòng thành với người đó theo như đã hứa trước mặt Đức Chúa Trời.” Ông Xi-ba thưa: “Tâu bệ hạ, còn một người con trai của ông Giô-na-than, què hai chân.” Vua tiếp: “Ông ấy ở đâu?” Ông Xi-ba thưa: “Ông ấy hiện đang ở nhà ông Ma-ki, con ông A-mi-ên, tại Lô-đê-ba.” Vua Đa-vít sai người đến nhà ông Ma-ki, con ông A-mi-ên, ở Lô-đê-ba, đón ông ấy về. Khi Mê-phi-bô-sết, con ông Giô-na-than, cháu vua Sau-lơ, vào chầu vua Đa-vít, ông sấp mình xuống đất lạy vua. Vua hỏi: “Cháu là Mê-phi-bô-sết phải không?” Ông thưa: “Tâu bệ hạ, cháu đây là tôi tớ bệ hạ.” Vua Đa-vít bảo: “Cháu đừng sợ. Vì ông Giô-na-than, cha cháu, ta sẽ giữ lòng thành với cháu. Ta sẽ trả lại cho cháu tất cả ruộng đất của vua Sau-lơ, ông nội cháu; hơn nữa, cháu sẽ dùng bửa cùng bàn với ta mãi mãi.” Ông Mê-phi-bô-sết cúi sấp xuống đất, vái lạy: “Tôi tớ bệ hạ là gì mà bệ hạ lại quan tâm đến một con chó chết như cháu?” Vua truyền đòi ông Xi-ba, đầy tớ vua Sau-lơ, đến và căn dặn: “Tất cả những gì thuộc về vua Sau-lơ và toàn thể gia đình vua, ta đều ban cho cháu nội của chủ ngươi. Vậy ngươi, con cái ngươi, và tôi tớ của ngươi hãy cày cấy ruộng đất cho ông ấy, và thu hoạch hoa màu để cung cấp lương thực cho gia đình9:10 Dịch theo LXX; nt: “cháu nội” của chủ ngươi. Nhưng ông Mê-phi-bô-sết, cháu nội của chủ ngươi, sẽ dùng bữa cùng bàn với ta luôn.” Ông Xi-ba có mười lăm con trai và hai mươi tôi tớ. Ông Xi-ba thưa: “Tôi tớ của bệ hạ xin tuân theo mọi điều bệ hạ là chúa tôi truyền dạy.” Vậy ông Mê-phi-bô-sết dùng bữa cùng bàn với vua Đa-vít như một hoàng tử. Ông Mê-phi-bô-sết có một con trai nhỏ tên là Mi-ca. Mọi người trong gia đình ông Xi-ba đều là tôi tớ của ông Mê-phi-bô-sết. Vậy ông Mê-phi-bô-sết sống tại thành Giê-ru-sa-lem vì ông được dùng bữa cùng bàn với vua luôn, dù ông bị què cả hai chân. Sứ Giả Của Vua Đa-vít Bị Người Am-môn Làm Nhục Chẳng bao lâu sau đó, vua dân Am-môn qua đời. Con vua là thái tử Ha-nun lên ngôi kế vị. Vua Đa-vít tự nhủ: “Ta muốn đối xử trung hậu với vua Ha-nun, con vua Na-hát, y như vua Na-hát đã đối xử trung hậu với ta.” Vua Đa-vít liền sai một số triều thần đi sứ đến chia buồn với vua Ha-nun về sự qua đời của vua cha là Na-hát. Vậy triều thần vua Đa-vít đi sứ đến nước dân Am-môn. Nhưng các tướng lãnh dân Am-môn tâu với chúa mình là vua Ha-nun: “Bệ hạ tưởng Đa-vít thật sự kính trọng vua cha khi sai sứ đến chia buồn với bệ hạ sao? Không đâu! Đa-vít sai sứ thần đến với bệ hạ chỉ để dò xét và do thám thành đô với mục đích đánh chiếm thành sau này!” Vua Ha-nun truyền lệnh bắt các sứ thần của vua Đa-vít, đem cạo sạch râu một bên mặt, cắt bỏ một bên nửa áo quần của họ ngay phía mông, rồi thả họ về. Vua Đa-vít nghe tin, sai người đi đón các sứ thần vì họ cảm thấy nhục nhã lắm. Vua bảo họ: “Các ngươi cứ ở lại thành Giê-ri-cô, chờ cho râu mọc lại, rồi hãy về.” Đánh Thắng Quân Am-môn Và Quân Sy-ri Dân Am-môn biết họ đã chọc cho vua Đa-vít căm thù, nên sai người đi thuê 20,000 bộ binh Sy-ri ở thành Bết-rê-hốp và Xô-ba, 1,000 quân của vua thành Ma-a-ca, và 12,000 quân của thành Tốp. Vua Đa-vít nghe tin liền sai tướng Giô-áp ra trận với toàn quân chuyên nghiệp. Quân Am-môn kéo ra dàn trận tại lối vào cổng thành, trong khi quân Sy-ri ở Xô-ba và Rê-hốp, và quân thành Tốp và Ma-a-ca dàn quân riêng ngoài đồng. Khi tướng Giô-áp thấy quân địch hãm đánh cả hai mặt, phía trước và phía sau, ông chọn đạo quân ưu tú nhất trong toàn quân tinh nhuệ của Y-sơ-ra-ên và dàn trận đánh quân Sy-ri. Ông giao số quân còn lại cho anh là ông A-bi-sai, và họ dàn trận đánh quân Am-môn. Ông căn dặn: “Nếu quân Sy-ri mạnh hơn em, anh đến cứu giúp em, còn nếu quân Am-môn mạnh hơn anh, em sẽ đến cứu giúp anh. Anh hãy can đảm lên, chúng ta hãy chiến đấu hết sức để bảo vệ dân tộc và các thành trì của Đức Chúa Trời. Xin CHÚA thực hiện ý tốt của Ngài!” Ông Giô-áp và đạo quân của ông tiến công đánh quân Sy-ri; chúng thua trận, bỏ chạy. Khi quân Am-môn thấy quân Sy-ri bỏ chạy, chúng cũng bỏ chạy trước mặt ông A-bi-sai và trốn vô thành. Ông Giô-áp liền ngưng đánh quân Am-môn và trở về thành Giê-ru-sa-lem. Quân Sy-ri thấy mình bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại nên tập hợp lực lượng. Vua Ha-đa-rê-xe sai người triệu tập quân Sy-ri từ phía bên kia sông Ơ-phơ-rát. Tướng Sô-bác, chỉ huy quân đội của vua Ha-đa-rê-xe, hướng dẫn chúng đến thành Hê-lam. Vua Đa-vít nghe tin liền tập hợp toàn quân Y-sơ-ra-ên, vượt sông Giô-đanh, và kéo đến Hê-lam, nơi quân Sy-ri dàn trận sẵn sàng để nghênh chiến vua Đa-vít. Quân Sy-ri tấn công, nhưng chúng thua bỏ chạy trước mặt quân Y-sơ-ra-ên. Vua Đa-vít tiêu diệt 700 cỗ xe ngựa và 40,000 kỵ binh Sy-ri. Tướng Sô-bác chỉ huy quân đội Sy-ri bị trọng thương và tử trận. Khi tất cả các vua chư hầu của vua Ha-đa-rê-xe thấy quân Sy-ri bị quân Y-sơ-ra-ên đánh bại, họ cầu hòa với dân Y-sơ-ra-ên và trở thành chư hầu của Y-sơ-ra-ên. Người Sy-ri sợ không dám tiếp viện dân Am-môn nữa. Vua Đa-vít Phạm Tội Tà Dâm Một năm sau khi các vua11:1 Nt: các sứ giả; xem 10:2, 6-8 ra quân11:1 Các dịch giả KT khác thường hiểu là: “Xuân về là lúc các vua thường ra quân” vua Đa-vít sai tướng Giô-áp và triều thần lãnh đạo toàn quân Y-sơ-ra-ên đi chinh chiến. Họ đánh bại quân Am-môn và vây hãm kinh đô Ráp-ba. Còn vua Đa-vít thì ở lại Giê-ru-sa-lem. Một buổi chiều kia, vua Đa-vít nghỉ trưa xong, thức dậy, đi dạo trên sân thượng cung điện; từ sân thượng vua nhìn thấy một phụ nữ đang tắm. Nàng rất đẹp. Vua Đa-vít sai người dò hỏi về nàng. Người ta tâu: “Đó chính là bà Bát-sê-ba, con gái ông Ê-li-am, vợ ông U-ri-gia, người Hê-tít.” Vua Đa-vít sai người đón nàng vào cung. Lúc ấy, nàng vừa thanh tẩy mình sau kỳ kinh nguyệt. Khi nàng đến, vua nằm với nàng. Rồi nàng trở về nhà. Sau đó, nàng thụ thai và sai người báo tin cho vua Đa-vít: “Tôi có thai.” Vua Đa-vít liền sai người mang lệnh vua cho tướng Giô-áp: “Hãy bảo U-ri-gia, người Hê-tít, về gặp ta.” Ông Giô-áp sai ông U-ri-gia về chầu vua Đa-vít. Khi ông U-ri-gia đến chầu vua, vua Đa-vít hỏi thăm tin tức về tướng Giô-áp, về binh sĩ, và tình hình chiến sự. Rồi vua Đa-vít bảo ông U-ri-gia: “Ngươi hãy về nhà nghỉ ngơi đôi chút”11:8 Nt: về nhà rửa chân đi Ông U-ri-gia rời khỏi cung điện. Vua sai người mang quà11:8 Ctd: thức ăn đến nhà cho ông. Nhưng ông U-ri-gia không về nhà. Ông nằm ngủ tại cổng hoàng cung chung với tất cả các cận vệ của chủ ông. Khi vua Đa-vít hay tin ông U-ri-gia không có về nhà, vua hỏi ông: “Ngươi đi đường xa mới về, sao ngươi không về nhà?” Ông U-ri-gia tâu với vua Đa-vít: “Rương Giao Ước và các chiến sĩ Y-sơ-ra-ên và Giu-đa đều ở trong lều;11:11 Ctd: đóng quân ở Xu-cốt trong khi tướng Giô-áp chủ tôi, và các đầy tớ của ông đều cắm trại ngoài đồng, lẽ nào tôi lại về nhà tôi, ăn uống và ngủ với vợ tôi sao? Tôi xin thề với bệ hạ tôi không bao giờ làm một chuyện như vậy!” Vua Đa-vít bảo: “Hãy ở lại đây hôm nay nữa, rồi ngày mai ta sẽ cho ngươi đi.” Vậy ông U-ri-gia ở lại thành Giê-ru-sa-lem ngày hôm ấy. Ngày hôm sau, vua Đa-vít mời ông U-ri-gia đến. Ông dùng bữa với vua, vua ép ông uống cho thật say, nhưng đến chiều, ông vẫn không về nhà. Ông ra ngoài nằm ngủ trên chiếu của mình, bên cạnh mấy người cận vệ của vua. Vua Đa-vít Phạm Tội Giết Người Sáng hôm sau, vua Đa-vít viết thơ gởi ông U-ri-gia cầm về cho tướng Giô-áp. Trong thơ, vua viết như thế này: “Hãy đặt U-ri-gia ở ngay hàng đầu, chỗ trận chiến ác liệt nhất, rồi các ngươi hãy lui xa ra, để cho U-ri-gia bị trúng thương mà tử trận.” Vậy, trong lúc vây thành, ông Giô-áp đặt ông U-ri-gia ở ngay chỗ ông biết quân địch có chiến sĩ hùng mạnh. Khi quân trong thành xông ra giao chiến với quân của ông Giô-áp, một vài người trong số các cận thần của vua Đa-vít, bị tử trận. Ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận. Ông Giô-áp sai người báo cáo cho vua Đa-vít biết mọi sự về tình hình chiến trận. Ông dặn người đem tin: “Khi anh báo cáo cho vua nghe xong mọi việc về tình hình chiến trận, có thể vua nổi giận hỏi: ‘Tại sao các ngươi đến gần tường thành như vậy mà giao chiến? Các ngươi không biết rằng quân địch bắn từ trên tường thành xuống sao? Ai giết A-bi-mê-léc, con ông Giê-ru-bê-sết.11:21 Thẩm 7:1 gọi là Giê-ru-ba-anh, một tên khác của Ghi-đê-ôn Phải chăng một người đàn bà từ trên tường thành đã liệng thớt đá xuống trên đầu ông và ông chết tại Thê-bết? Tại sao các ngươi lại đến gần tường thành như vậy?’ Bấy giờ anh hãy tâu: ‘Tôi tớ vua là ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.’ ” Người lính đem tin lên đường; anh đến nơi, báo tin lại cho vua Đa-vít mọi điều ông Giô-áp căn dặn. Anh thưa với vua: “Lúc đầu quân địch mạnh hơn chúng tôi, chúng nó xông vào đánh chúng tôi ngoài đồng, nhưng sau đó chúng tôi đẩy lui chúng về đến cổng thành. Nhưng lính bắn cung từ trên tường thành bắn vào các đầy tớ của vua, và một vài người tử trận; đầy tớ vua là ông U-ri-gia, người Hê-tít, cũng tử trận.” Vua Đa-vít bảo người đem tin: “Ngươi hãy khuyến khích tướng Giô-áp, khuyên ông đừng buồn phiền về chuyện này, vì lưỡi gươm chém giết khi nhằm người này, lúc người kia. Ngươi hãy khuyên ông ra sức chiến đấu, tấn công và phá hủy thành.” Bà vợ ông U-ri-gia nghe tin chồng tử trận, liền than khóc chồng. Sau khi mãn tang, vua Đa-vít sai người đón bà về cung. Bà trở thành vợ vua, và sanh cho vua một con trai. Nhưng điều Đa-vít đã làm không đẹp lòng CHÚA. Sứ Điệp Của Tiên Tri Na-than CHÚA sai tiên tri Na-than đi gặp vua Đa-vít. Ông đến gặp vua và nói: “Có hai người ở trong cùng một thành, một người giàu, và một người nghèo. Người giàu có rất nhiều đàn chiên dê, và bò. Còn người nghèo chẳng có gì cả, ngoài một con chiên cái nhỏ mà ông đã mua. Ông nuôi nó, và nó lớn lên trong nhà ông, cùng với con cái ông. Nó ăn chung bánh với ông, uống chung chén với ông, và ngủ trong lòng ông. Ông coi nó như một đứa con gái. Một ngày kia, có khách đi đường xa đến thăm người giàu. Ông này tiếc, không muốn bắt chiên dê, hoặc bò của mình làm thịt đãi người lữ khách đến thăm ông. Ông bắt con chiên cái của người nghèo làm thịt đãi khách.” Vua Đa-vít bất bình giận dữ về việc làm của người giàu, nói với ông Na-than: “Có CHÚA hằng sống, kẻ nào làm chuyện đó thật đáng chết! Nó phải bồi thường gấp bốn lần12:6 Xuất 22:1; LXX: “bảy lần,” theo Châm 6:31 giá con chiên cái, vì nó đã làm chuyện đó, và không có lòng thương xót.” Ông Na-than nói với vua Đa-vít: “Kẻ đó chính là bệ hạ! CHÚA, là Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên, phán như vầy: ‘Chính Ta đã xức dầu cho con làm vua dân Y-sơ-ra-ên, chính Ta đã giải cứu con khỏi tay vua Sau-lơ. Ta ban cho con quyền trên gia đình của chủ con, Ta giao những người vợ của chủ con vào lòng con, Ta ban cho con quyền cai trị dân Y-sơ-ra-ên và Giu-đa. Nếu bấy nhiêu chưa đủ, Ta có thể ban cho con nhiều hơn gấp mấy lần nữa. Tại sao con lại khinh dể mạng lịnh của CHÚA, làm điều ác trước mắt Ngài? Con đã dùng gươm giết U-ri-gia, người Hê-tít! Con lấy vợ nó làm vợ con, rồi con dùng gươm của quân Am-môn giết nó! Vậy, lưỡi gươm sẽ không bao giờ lìa khỏi nhà con, vì con đã khinh dể Ta, lấy vợ của U-ri-gia người Hê-tít làm vợ con.’ CHÚA phán như vầy: ‘Này, Ta sẽ khiến chính người nhà của con gây họa cho con. Ngay trước mắt con, Ta sẽ bắt các vợ của con và giao cho một người thân cận của con, và nó sẽ ngủ với các vợ của con giữa ban ngày, trước mắt mọi người. Con đã hành động lén lút, nhưng Ta sẽ làm việc này ngay giữa ban ngày, trước mặt toàn dân Y-sơ-ra-ên.’ ” Vua Đa-vít thú nhận với ông Na-than: “Tôi có tội với CHÚA.” Ông Na-than đáp: “Phải, nhưng CHÚA đã tha thứ cho bệ hạ, và bệ hạ sẽ không chết. Tuy nhiên, vì bệ hạ đã tỏ ra khinh thường CHÚA12:14 nt: “kẻ thù của CHÚA”; các học giả thêm vào hai từ “kẻ thù” khi sao lại các cổ bản KT vì họ muốn tránh câu “khinh thường CHÚA”; xem 1Sa 25:22 trong vụ này, nên bé trai vừa sanh ra cho bệ hạ sẽ phải chết.” Nói xong, ông Na-than trở về nhà. Con Trai Bà Bát-sê-ba Chết CHÚA khiến cho đứa bé bà vợ ông U-ri-gia vừa sanh ra cho vua Đa-vít lâm bệnh nặng. Vua Đa-vít nài xin Đức Chúa Trời chữa lành cho đứa bé; vua nhịn ăn, và ban đêm, vua về phòng nằm dưới đất suốt đêm. Các cận thần phục vụ lâu năm trong hoàng cung chầu chực bên cạnh vua, nài nỉ xin đỡ vua dậy, nhưng vua không chịu; vua cũng chẳng ăn chút gì với họ. Đến ngày thứ bảy, đứa bé chết. Các cận thần sợ, không dám báo cho vua Đa-vít hay tin đứa bé chết, vì họ bảo nhau: “Khi đứa bé còn sống, vua đã chẳng chịu nghe chúng ta khuyên giải. Làm sao chúng ta dám báo cho vua hay là đứa bé chết? Vua có thể làm liều!” Thấy triều thần thì thầm với nhau, vua Đa-vít biết là đứa bé đã chết. Vua hỏi triều thần: “Đứa bé chết rồi, phải không?” Họ thưa: “Tâu phải.” Vua Đa-vít chỗi dậy khỏi đất, tắm rửa, xức dầu thơm; thay quần áo xong, vua vào Lều của CHÚA, sấp mình xuống thờ phượng. Rồi vua trở về cung, truyền dọn thức ăn. Khi người ta dọn lên, vua dùng ngay. Triều thần thưa với vua: “Chúng tôi không hiểu tại sao bệ hạ hành động như vậy. Khi đứa bé còn sống, bệ hạ nhịn ăn và khóc lóc. Nhưng ngay khi đứa bé chết, bệ hạ lại chỗi dậy và ăn.” Vua đáp: “Khi đứa bé còn sống, ta nhịn ăn và khóc lóc, vì ta tự nhủ: ‘Biết đâu CHÚA thương xót ta và Ngài cho đứa bé được sống.’ Nhưng bây giờ nó chết rồi, ta còn nhịn ăn làm gì nữa? Ta có thể nào đem nó trở lại dương gian này được không? Chính ta sẽ đi đến nơi nó ở, chớ nó không thể trở về với ta được.” Vua Sa-lô-môn Ra Đời Vua Đa-vít an ủi bà Bát-sê-ba, vợ mình. Vua đến với nàng và ngủ với nàng. Nàng sanh một con trai, vua đặt tên là Sa-lô-môn. CHÚA yêu thương đứa bé và sai tiên tri Na-than đến báo cho vua Đa-vít biết CHÚA đặt tên đứa bé là Giê-đi-đê-gia, vì Ngài yêu thương nó. Những Năm Hoạn Nạn Trong khi đó, tướng Giô-áp tấn công thành Ráp-ba, kinh đô của dân Am-môn, và sắp chiếm được kinh thành. Ông Giô-áp sai lính về tâu với vua Đa-vít: “Tôi đang tấn công kinh đô Ráp-ba, và tôi đã chiếm được thành lũy bảo vệ nơi dự trữ nước của kinh thành. Bây giờ, xin bệ hạ tập hợp số binh sĩ còn lại, đến bao vây và chiếm kinh đô, kẻo chính tôi chiếm nó, và nó mang tên tôi.” Vua Đa-vít tập hợp toàn quân, kéo đến đánh thành Ráp-ba, và chiếm được. Vua lột vương miện trên đầu tượng thần Minh-côm12:30 Dân Am-môn thờ thần Minh-côm; ctd: “trên đầu vua chúng” ra, đặt lên đầu mình; vương miện bằng vàng, nặng khoảng một ta-lâng,12:30 Khoảng 30kg và có một viên ngọc quý.12:30 Cổ bản A-ram, La-tinh và Syriac: nhiều viên ngọc quý Vua cũng đem đi rất nhiều chiến lợi phẩm lấy được từ trong thành. Vua cũng đưa dân trong thành đi lao động, bắt họ sử dụng cưa, bừa sắt, rìu sắt, và đúc gạch. Vua xử như vậy với mọi thành của dân Am-môn. Rồi vua Đa-vít và toàn quân trở về thành Giê-ru-sa-lem. Am-nôn Làm Nhục Ta-ma, Em Gái Cùng Cha Khác Mẹ Sau đó một thời gian, chuyện này xảy ra. Áp-sa-lôm, con trai vua Đa-vít, có một cô em gái xinh đẹp, tên là Ta-ma. Am-nôn, một người con trai khác của vua Đa-vít, yêu cô. Am-nôn bị dày vò đến ốm tương tư vì công chúa Ta-ma, em gái mình13:2 Em cùng cha khác mẹ vì nàng là gái còn trinh, và Am-nôn thấy không có cách chi làm gì được nàng cả. Nhưng Am-nôn có một người bạn rất khôn lanh, tên là Giô-na-đáp, con ông Sim-a;13:3 Theo 1Sa 16:9, “Sam-ma” ông này là anh vua Đa-vít. Giô-na-đáp hỏi Am-nôn: “Sao mà hoàng tử trông ngày càng xơ xác như vậy? Nói cho anh biết được không?” Am-nôn đáp: “Em yêu Ta-ma, em gái của Áp-sa-lôm, em trai của em.” Giô-na-đáp bày vẽ: “Chú lên giường nằm, giả bệnh. Khi vua cha đến thăm, chú thưa với cha: ‘Xin cha cho phép Ta-ma, em con, đến săn sóc miếng ăn cho con: em con sẽ nấu món ăn trước mắt con, cho con thấy, và sẽ tự tay dọn lên cho con ăn.’ ” Vậy Am-nôn đi nằm và giả bệnh. Khi vua cha đến thăm, Am-nôn thưa: “Xin cha cho phép Ta-ma, em con, đến đây làm vài cái bánh nhỏ trước mắt con, rồi tự tay dọn lên cho con ăn.” Vua Đa-vít sai người đến nhắn với công chúa Ta-ma, tại nhà nàng: “Con hãy đến nhà Am-nôn, nấu ăn cho anh con.” Công chúa Ta-ma đến nhà Am-nôn, thấy anh mình đang nằm trên giường. Nàng lấy bột, nhồi, nặn thành từng bánh nhỏ trước mắt anh mình, rồi đem hấp. Nàng cầm nồi, gắp bánh ra, dọn lên cho anh. Nhưng Am-nôn từ chối, không chịu ăn, và ra lệnh cho mọi người lui ra. Khi mọi người ra khỏi, Am-nôn nói với Ta-ma: “Em mang thức ăn vào phòng dọn cho anh.” Ta-ma đem những ổ bánh vừa làm xong vô phòng cho anh là Am-nôn. Khi nàng bưng bánh đến gần giường, Am-nôn chụp lấy nàng, bảo: “Em lại đây nằm với anh.” Nhưng Ta-ma phản đối: “Đừng, anh! Đừng cưỡng ép em! Không ai làm như vậy trong nước Y-sơ-ra-ên! Đừng làm chuyện đồi bại dường ấy! Em sẽ mang nỗi hổ nhục này đi đâu? Còn anh, anh sẽ bị coi như một tên đồi bại trong nước Y-sơ-ra-ên! Bây giờ, xin anh thưa với vua cha, vua sẽ không từ chối gả em cho anh đâu!” Nhưng Am-nôn không chịu nghe nàng. Vì chàng mạnh hơn, nên đè nàng xuống và cưỡng hiếp nàng. Bấy giờ Am-nôn đâm ra ghét nàng thậm tệ. Thật chàng còn ghét nàng nhiều hơn là chàng yêu nàng lúc trước. Sau đó Am-nôn đuổi nàng: “Đứng dậy! Ra khỏi đây!” Nàng năn nỉ: “Đừng, anh! Đuổi em đi lại còn độc ác hơn tội ác anh vừa phạm đối với em.” Nhưng Am-nôn không chịu nghe nàng. Chàng gọi người đầy tớ hầu hạ mình, bảo: “Đuổi cô này đi cho khuất mắt tôi! Cài then cửa lại sau khi cô ấy ra!” Người đầy tớ đuổi nàng ra và cài then cửa lại sau lưng nàng. Lúc ấy, nàng đang mặc chiếc áo dài, tay dài13:18 Có bản dịch: áo dài nhiều màu sặc sỡ Sáng 37:3, 23, 32 như các công chúa còn trinh thuở ấy thường mặc. Ta-ma rắc tro lên đầu, xé rách chiếc áo dài, tay dài nàng đang mặc, lấy hai tay bụm mặt lại vừa đi vừa khóc lớn tiếng. Áp-sa-lôm, anh nàng, hỏi: “Có phải Am-nôn, anh của em, vừa làm nhục em không? Bây giờ, em nên giữ yên lặng; nó là anh của em. Cố gắng đừng bận tâm về chuyện đó nữa.” Vậy, Ta-ma sống cô đơn buồn thảm trong nhà Áp-sa-lôm, anh nàng. Vua Đa-vít giận lắm khi nghe biết mọi việc xảy ra.13:21 LXX có ghi thêm: “nhưng vua không một lời quở trách Am-nôn, vì vua thương chàng lắm, bởi chàng là con trưởng nam.” Còn Áp-sa-lôm ghét Am-nôn đến nỗi không hề nói một lời gì, dù lành hay dữ, với Am-nôn, vì Am-nôn đã làm nhục Ta-ma, em gái chàng. Áp-sa-lôm Trả Thù Hai năm sau, Áp-sa-lôm tổ chức hớt lông bầy chiên của mình tại làng Ba-anh Hát-so, gần thành Ép-ra-im. Chàng mời tất cả các hoàng tử đến dự. Áp-sa-lôm vào chầu vua và tâu: “Hạ thần có tổ chức hớt lông chiên, kính mời phụ vương và triều thần đến dự.” Vua đáp: “Không được, con. Tất cả chúng ta không thể cùng đi vì sẽ làm gánh nặng cho con.” Áp-sa-lôm nài nỉ, nhưng vua nhất quyết không đi. Vua chỉ chúc phước cho chàng thôi. Áp-sa-lôm lại thưa: “Nếu phụ vương không đi được, xin phụ vương cho phép anh Am-nôn đi với chúng con.” Vua hỏi: “Tại sao Am-nôn phải đi?” Áp-sa-lôm nài nỉ mãi, vua mới cho phép Am-nôn và tất cả các hoàng tử cùng đi. Áp-sa-lôm mở tiệc linh đình như tiệc yến vua đãi vậy.13:27 Câu này chỉ có trong LXX Áp-sa-lôm ra lệnh cho các đầy tớ mình: “Các ngươi để ý xem chừng, khi Am-nôn hứng chí vì rượu đã ngà ngà, ta sẽ bảo các ngươi hạ nó. Các ngươi cứ giết nó, đừng sợ chi hết, vì chính ta đã ra lệnh cho các ngươi. Hãy mạnh dạn lên, hãy tỏ chí trượng phu!” Các đầy tớ của Áp-sa-lôm vâng lệnh chủ, giết Am-nôn. Tất cả các hoàng tử khác vội đứng lên, cưỡi la chạy trốn. Khi họ còn đang trên đường thì có tin báo cho vua Đa-vít rằng Áp-sa-lôm đã giết tất cả các hoàng tử, không một ai sống sót. Vua Đa-vít liền đứng dậy, xé rách áo mình, và nằm xuống đất. Toàn thể triều thần đứng hầu chung quanh cũng xé áo họ ra. Bấy giờ Giô-na-đáp, con ông Sim-a, và là cháu của vua Đa-vít, thưa: “Xin chúa tôi là bệ hạ đừng nghĩ rằng các đầy tớ đã giết hết các hoàng tử. Chỉ một mình Am-nôn chết thôi, vì Áp-sa-lôm đã quyết định việc ấy kể từ ngày Am-nôn cưỡng hiếp em nó là Ta-ma. Vậy, bây giờ, xin chúa tôi là bệ hạ đừng bận tâm đến tin đồn cho rằng tất cả các hoàng tử đều chết. Chỉ một mình Am-nôn chết thôi.” Trong khi đó, Áp-sa-lôm đã trốn đi. Người lính trẻ nơi vọng canh ngước mắt lên nhìn, thấy một đám đông đi xuống dọc theo sườn đồi, trên đường về Hô-rô-na-im13:34 Dịch theo LXX; nt: “trên con đường phía sau lưng mình” Người canh gác đến báo tin cho vua hay: “Tâu bệ hạ, tôi thấy nhiều người đàn ông đi trên đường về Hô-rô-na-im, đang tiến về đây”.13:34 Dịch theo LXX; câu này không có trong Nt Giô-na-đáp thưa với vua: “Kìa, các hoàng tử về đến nơi, y như lời hạ thần tâu.” Giô-na-đáp vừa nói xong, các hoàng tử bước vào. Họ òa lên khóc. Vua và toàn thể triều thần cũng khóc than thảm thiết. Áp-sa-lôm đã trốn đến ở với vua Thanh-mai13:37 Ông ngoại của Áp-sa-lôm; xem 3:3 con vua A-mi-hút, xứ Ghê-sua. Vua Đa-vít khóc thương Am-nôn lâu ngày. Áp-sa-lôm trốn đến Ghê-sua và ẩn trú ở đó ba năm. Nỗi buồn mất Am-nôn vừa nguôi ngoai, vua Đa-vít lại khắc khoải mong nhớ Áp-sa-lôm. Ông Giô-áp Sắp Xếp Cho Áp-sa-lôm Trở Về Ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, biết lòng vua hướng về Áp-sa-lôm. Ông Giô-áp sai người đi Tê-kô-a mời một người đàn bà khôn khéo về. Ông bảo bà: “Bà hãy giả bộ để tang. Bà mặc áo tang, đừng xức dầu thơm, và giả làm như một người để tang nay đã lâu ngày. Bà đến xin gặp vua và thưa với vua những lời như sau.” Rồi ông Giô-áp chỉ dạy bà những lời phải nói. Người đàn bà Tê-kô-a đến tâu với vua. Bà sấp mặt xuống đất lạy và thưa: “Tâu bệ hạ, xin bệ hạ cứu tôi!” Vua hỏi bà: “Bà có vấn đề gì?” Bà thưa: “Than ôi! Tôi là đàn bà góa, chồng tôi chết rồi. Nữ tỳ vua có hai con trai. Một hôm, chúng cãi nhau ngoài đồng. Vì không có ai khuyên can nên đứa này đánh đứa kia chết. Bây giờ toàn thị tộc nổi dậy chống lại nữ tỳ của vua. Họ bảo tôi: ‘Bà phải nộp đứa con đã giết chết anh em nó, để chúng tôi xử tử nó. Nó phải đền mạng cho đứa kia bị nó giết chết. Dù nó là người thừa kế, chúng ta vẫn cứ diệt luôn!’ Như vậy, họ sẽ dập tắt cụm than hồng còn lại, để chồng tôi không còn tên tuổi hoặc người nối dõi trên mặt đất.” Vua bảo người đàn bà: “Bà an tâm về nhà. Ta sẽ giải quyết vụ này cho bà.” Người đàn bà Tê-kô-a thưa tiếp: “Tâu vua chúa tôi, xin tội này đổ lại trên tôi và họ hàng nhà cha tôi, còn bệ hạ và ngôi vua thì vô can.” Vua bảo: “Nếu có ai gây khó dễ cho bà, hãy đưa tới đây. Họ sẽ không dám đụng tới bà nữa.” Bà lại thưa: “Xin bệ hạ nhớ đến CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ, mà can ngăn, đừng để cho người họ hàng chịu trách nhiệm báo thù cho đứa con đã chết của tôi phải phạm tội nặng nề, giết hại đứa con còn sót lại của tôi.” Vua đáp: “Có CHÚA hằng sống chứng kiến, ta hứa rằng không một sợi tóc nào của con bà sẽ rơi xuống đất.” Người đàn bà thưa tiếp: “Xin vua chúa tôi cho phép nữ tỳ của bệ hạ thưa thêm một lời.” Vua bảo: “Bà cứ nói.” Bà thưa: “Sao bệ hạ lại toan tính một chuyện có hại cho dân của Đức Chúa Trời như thế? Nghĩa là bệ hạ không cho phép người con bị đày của bệ hạ trở về. Khi bệ hạ phán hứa như vừa rồi, bệ hạ đã tự kết án chính mình. Chúng ta ai nấy rồi cũng phải chết, như nước đổ xuống đất, không hốt lại được. Nhưng Đức Chúa Trời sẽ không cất mạng sống của người sắp xếp cho kẻ bị đày trở về, và bây giờ, tâu vua chúa tôi, tôi đến đây thưa với vua chuyện này, vì người ta làm tôi sợ. Nữ tỳ bệ hạ tự nhủ: ‘Tôi sẽ thưa với vua; biết đâu vua sẽ ban cho nữ tỳ vua điều tôi xin. Vua chắc sẽ nhận lời và giải cứu nữ tỳ vua khỏi tay kẻ tìm cách diệt trừ cả tôi và con trai tôi ra khỏi dân14:16 Ctd: cơ nghiệp của Đức Chúa Trời.’ Nữ tỳ vua lại tự nhủ: ‘Xin lời của vua chúa tôi phán ra là quyết định tối hậu vì vua chúa tôi giống như thiên sứ của Đức Chúa Trời, biết phân biệt điều lành, điều dữ.’ Cầu xin CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ ở cùng bệ hạ.” Vua bảo: “Đừng giấu ta việc ta sắp hỏi bà.” Người đàn bà thưa: “Xin vua chúa tôi cứ hỏi.” Vua hỏi: “Có bàn tay của Giô-áp nhúng vào tất cả việc này không?” Bà thưa: “Tâu bệ hạ, tôi xin chỉ mạng sống vua chúa tôi mà thề rằng thật đúng y như lời vua chúa tôi nói. Chính đầy tớ của bệ hạ là tướng Giô-áp đã chỉ dạy tôi mọi điều tôi phải nói và làm. Chính vì muốn thay đổi tình thế14:20 nt: “lật ngược mặt kia của vấn đề” mà đầy tớ vua là tướng Giô-áp đã làm như thế. Vua chúa tôi thật khôn ngoan như thiên sứ của Đức Chúa Trời: Bệ hạ biết mọi việc xảy ra trên đất.” Kế đó, vua bảo tướng Giô-áp: “Ta quyết định làm điều ngươi xin. Hãy đi, đem Áp-sa-lôm về đây.” Tướng Giô-áp sấp mặt xuống đất, vái lạy, và tâu: “Cầu xin Đức Chúa Trời ban phước cho bệ hạ! Hôm nay đầy tớ vua biết rõ vua chúa tôi hài lòng về tôi, vì vua quyết định thi hành điều tôi xin.” Tướng Giô-áp đứng lên, đi ngay đến Ghê-sua, đem hoàng tử Áp-sa-lôm về thành Giê-ru-sa-lem. Nhưng vua bảo: “Nó phải đi thẳng về nhà nó, không được trình diện ta.” Vậy Áp-sa-lôm đi về nhà mình, không được gặp mặt vua. Áp-sa-lôm Được Vua Cha Tha Thứ Trong toàn quốc Y-sơ-ra-ên lúc bấy giờ, không có ai được khen ngợi nhiều về sắc đẹp của mình bằng hoàng tử Áp-sa-lôm: từ lòng bàn chân cho tới đỉnh đầu, không có một khuyết điểm nào. Cuối mỗi năm ông phải cắt tóc vì tóc đè nặng trên đầu. Khi ông cắt tóc và đem cân, tóc đầu ông nặng hơn hai trăm sê-ken,14:26 Khoảng 2kg theo quả cân của nhà vua. Áp-sa-lôm có ba con trai và một con gái tên là Ta-ma. Cô rất xinh đẹp. Hoàng tử Áp-sa-lôm sống tại Giê-ru-sa-lem hai năm trọn, nhưng không được trình diện vua cha. Áp-sa-lôm sai mời ông Giô-áp đến, định nhờ ông vào tâu vua giùm, nhưng ông Giô-áp không chịu đến. Áp-sa-lôm sai mời lần thứ nhì, ông Giô-áp cũng không chịu đến. Áp-sa-lôm bảo các đầy tớ mình: “Xem kìa, ruộng của Giô-áp trồng lúa mạch, ở ngay bên cạnh ruộng ta. Các ngươi hãy đi đốt cháy ruộng ông ta.” Vậy các đầy tớ của Áp-sa-lôm đi đốt cháy ruộng của ông Giô-áp. Ông Giô-áp liền đi ngay đến nhà Áp-sa-lôm, hỏi: “Tại sao các đầy tớ của hoàng tử lại đi đốt cháy ruộng tôi?” Áp-sa-lôm đáp: “Tôi sai người mời ông đến, để nhờ ông vào tâu vua giùm tôi: ‘Con rời Ghê-sua về đây làm gì? Thà con ở lại đó còn hơn.’ Bây giờ tôi muốn được gặp mặt vua. Nếu tôi có lỗi, xin vua cứ giết tôi đi!” Ông Giô-áp vào tâu lên vua điều Áp-sa-lôm thỉnh cầu. Vua cho đòi Áp-sa-lôm vào. Áp-sa-lôm đến, quì sấp mặt xuống đất trước mặt vua mà lạy. Vua hôn Áp-sa-lôm. Áp-sa-lôm Âm Mưu Phản Loạn Sau đó, Áp-sa-lôm sắm cho mình một cỗ xe ngựa và 50 người chạy trước xe. Áp-sa-lôm thường dậy sớm, đứng ở bên đường vào cổng thành. Bất cứ người nào có việc thưa kiện đến xin vua xét xử, Áp-sa-lôm cũng gọi lại, hỏi: “Ông quê ở đâu, thành nào?” Sau khi người kia đáp: “Tôi tớ ngài thuộc bộ tộc này, bộ tộc nọ trong Y-sơ-ra-ên,” Áp-sa-lôm thường nói: “Tốt lắm, vụ kiện của ông đúng và chính đáng, nhưng tiếc là vua không có cử ai để nghe ông cả.” Áp-sa-lôm lại nói tiếp: “Ước gì có người cử tôi làm thẩm phán trong nước! Bấy giờ người nào có việc thưa kiện đến với tôi, tôi cũng sẽ xét xử công minh cho người đó.” Và hễ có người nào đến gần, sấp mình xuống vái chào, Áp-sa-lôm liền dang tay ra, ôm chầm lấy người ấy mà hôn. Áp-sa-lôm cư xử như thế với mọi người Y-sơ-ra-ên đến xin vua xét xử. Vậy, Áp-sa-lôm đánh gạt được dân Y-sơ-ra-ên. Sau bốn năm15:7 Dịch theo LXX và Syr; nt: bốn mươi năm Áp-sa-lôm thưa với vua: “Xin cho phép con đi Hếp-rôn để giữ trọn lời khấn nguyện với CHÚA. Vì lúc còn ở Ghê-sua, thuộc xứ Sy-ri, tôi tớ phụ vương có khấn nguyện: ‘Nếu CHÚA cho con trở về thành Giê-ru-sa-lem, con sẽ thờ phượng CHÚA tại Hếp-rôn’15:8 Dịch theo LXX; nt: không có “tại Hếp-rôn.” Vua bảo: ‘Con đi bình an.’ ” Vậy, Áp-sa-lôm đi Hếp-rôn. Đồng thời, Áp-sa-lôm sai người bí mật đi khắp các bộ tộc Y-sơ-ra-ên và căn dặn họ: “Khi anh em nghe tiếng tù và thổi, hãy tung hô lên: ‘Áp-sa-lôm làm vua ở Hếp-rôn!’ ” Áp-sa-lôm có mời hai trăm quan khách ở Giê-ru-sa-lem cùng đi với mình, nhưng họ đi với thiện ý, không hề biết gì về mưu phản của ông. Khi chuẩn bị dâng tế lễ, Áp-sa-lôm sai người đi thành Ghi-lô mời ông A-hi-tô-phen đến. Ông là cố vấn của vua Đa-vít. Bọn âm mưu phản loạn thêm mạnh, và số người ủng hộ Áp-sa-lôm ngày càng đông. Vua Đa-vít Trốn Khỏi Thành Giê-ru-sa-lem Có người đến báo cho vua Đa-vít: “Dân Y-sơ-ra-ên theo phe Áp-sa-lôm.” Toàn thể triều thần đang ở với vua tại Giê-ru-sa-lem. Vua Đa-vít liền bảo họ: “Chúng ta phải đi trốn ngay, vì Áp-sa-lôm sẽ không để cho một ai trong chúng ta thoát chết đâu. Chúng ta phải đi nhanh, kẻo chẳng mấy chốc nó đuổi kịp chúng ta, đánh bại chúng ta, và dùng gươm giết mọi người trong thành.” Triều thần tâu với vua: “Vua chúa chúng tôi quyết định thể nào, chúng tôi đây là tôi tớ vua xin tuân theo.” Vậy vua ra đi cùng với mọi người trong hoàng cung. Vua chỉ để lại mười cung phi để giữ cung điện. Vua ra đi, và mọi người đi theo. Họ dừng lại ở ngôi nhà cuối cùng. Tất cả các tôi tớ vua đi qua trước mặt vua, kể cả toàn thể người Kê-rết và Phê-lết trong toán vệ binh hoàng gia. Khi tất cả sáu trăm quân binh theo vua từ thành Gát đi qua trước mặt vua, Vua hỏi ông Y-tai, người Gát: “Ngươi cũng đi theo chúng ta nữa sao? Hãy trở về ở với nhà vua, vì ngươi là người nước ngoài, và ngươi hiện cũng đang sống lưu vong, xa quê hương. Ngươi chỉ mới đến với ta hôm qua thôi. Không lẽ hôm nay ta lại bắt ngươi đi lang thang với chúng ta, trong khi chính ta cũng không biết ta sẽ đi về đâu? Ngươi hãy trở về, và dẫn theo các anh em ngươi. Cầu xin lòng thương xót và sự thành tín của CHÚA ở với ngươi.”15:20 Dịch theo LXX Ông Y-tai thưa: “Có CHÚA hằng sống chứng kiến, và trước mặt vua chúa tôi đang sống đây, tôi xin thề: vua chúa tôi ở đâu, tôi tớ ngài sẽ ở đó, dù sống hay chết.” Vua Đa-vít bảo ông: “Được, vậy thì hãy đi qua.” Ông Y-tai, người Gát, đi qua cùng với tất cả những quân binh theo ông và gia đình họ. Khiêng Rương Giao Ước Trở Về Thành Giê-ru-sa-lem Toàn dân trong thành Giê-ru-sa-lem khóc lớn tiếng khi đoàn quân đi qua. Vua đi qua khe Kít-rôn, và đoàn quân đi qua theo con đường dẫn vào sa mạc;15:23 Nt: không rõ nghĩa; có đề nghị sửa đổi: “vua dừng lại trong thung lũng Kít-rôn trong khi đoàn quân đi qua trước mặt vua, theo con đường lên núi Ô-liu, về hướng sa mạc.” Có cả thầy tế lễ Xa-đốc với tất cả các thầy Lê-vi khiêng Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời. Họ đặt Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời xuống, và thầy tế lễ A-bia-tha dâng tế lễ cho đến khi đoàn quân ra khỏi thành đi qua hết. Vua bảo thầy tế lễ Xa-đốc: “Xin thầy đem Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời trở về thành. Nếu tôi được đẹp lòng CHÚA, Ngài sẽ đưa tôi về và cho tôi nhìn thấy rương và nơi rương ngự. Còn nếu Ngài phán: ‘Con không đẹp lòng Ta,’ thì xin Ngài xử với tôi theo ý tốt đẹp của Ngài.” Vua bảo tiếp: “Thầy có hiểu ý tôi không? Thầy và thầy tế lễ A-bia-tha hãy trở về thành bình an cùng với hai con, A-hi-mát, con thầy, và Giô-na-than, con thầy tế lễ A-bia-tha. Về phần tôi, tôi sẽ nán lại trong đồng vắng, gần các chỗ qua sông cho đến khi được tin hai thầy.” Vậy, hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha đưa Rương Giao Ước của Đức Chúa Trời trở vào thành Giê-ru-sa-lem, và họ ở lại đó. Vua Đa-vít Bảo Ông Hu-sai Về Thành Giê-ru-sa-lem Hoạt Động Do Thám Trong lúc ấy, vua Đa-vít đi lên dốc núi Ô-liu, vừa đi vừa khóc, đầu trùm lại, và đi chân không. Tất cả những người đi theo vua cũng trùm đầu lại, vừa đi vừa khóc. Khi vua Đa-vít được tin ông A-hi-tô-phen ở trong nhóm âm mưu phản loạn cùng với Áp-sa-lôm, vua cầu: “Lạy CHÚA, xin làm cho lời bàn của A-hi-tô-phen ra ngu dại.” Lên đến đỉnh núi, nơi người ta thờ phượng Đức Chúa Trời, vua Đa-vít gặp ông Hu-sai người Ạt-kít ra đón vua, áo xé rách và đầu phủ bụi đất. Vua Đa-vít bảo ông: “Nếu ngươi đi với ta, ngươi sẽ nên gánh nặng cho ta. Nhưng nếu ngươi trở về thành, nói với Áp-sa-lôm: ‘Tâu bệ hạ, tôi là tôi tớ bệ hạ; trước đây tôi là tôi tớ của cha bệ hạ, nhưng bây giờ tôi là tôi tớ bệ hạ,’ thì ngươi có thể giúp ta bằng cách phá hỏng lời bàn của A-hi-tô-phen. Kìa, hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha cũng ở đó với ngươi. Hãy báo cho hai thầy ấy biết mọi tin tức ngươi nghe được từ cung vua. Hai thầy cũng có hai người con ở đó, A-hi-mát con thầy Xa-đốc, và Giô-na-than, con thầy A-bia-tha. Ngươi có thể sai chúng báo cho ta mọi điều gì ngươi nghe được.” Vậy, ông Hu-sai, bạn vua Đa-vít, vào thành đúng ngay lúc Áp-sa-lôm về đến Giê-ru-sa-lem. Vua Đa-vít Và Ông Xi-ba Vua Đa-vít vừa đi qua đỉnh núi được một chút thì gặp ông Xi-ba, đầy tớ của Mê-phi-bô-sết, ra đón, dẫn theo hai con lừa có thắng yên sẵn sàng, chở hai trăm ổ bánh, một trăm chùm nho khô, một trăm trái vả16:1 nt: “một trăm trái cây mùa hè”; cũng có thể là trái lựu và một bầu da đầy rượu. Vua hỏi ông Xi-ba: “Ngươi định làm gì với những thứ này?” Ông Xi-ba thưa: “Tâu bệ hạ, lừa dành cho hoàng gia cưỡi, bánh và trái cây cho đoàn quân dùng, và rượu cho người nào mệt lả trong sa mạc uống.” Vua hỏi tiếp: “Cháu nội của chủ ngươi đâu?” Ông Xi-ba thưa: “Ông ấy ở lại Giê-ru-sa-lem, vì ông tự bảo: ‘Hôm nay dân Y-sơ-ra-ên sẽ trả lại cho ta ngôi nước của ông nội ta.’ ” Vua bảo ông Xi-ba: “Vậy ta ban cho ngươi tất cả những gì thuộc về Mê-phi-bô-sết.” Ông Xi-ba thưa: “Tôi xin cúi lạy, đội ơn bệ hạ. Xin cho tôi được đẹp lòng vua chúa tôi mãi mãi.” Vua Đa-vít Và Sim-y Vua Đa-vít vừa đến gần Ba-hu-rim thì thấy một người từ làng đó đi tới, vừa đi vừa rủa. Người này cùng một gia tộc với vua Sau-lơ, tên là Sim-y, con ông Ghê-ra. Sim-y ném đá vào vua Đa-vít và toàn thể triều thần, mặc dù có cả đoàn quân và tất cả các dũng sĩ đi bên phải và bên trái vua. Sim-y rủa sả vua: “Đi đi! Ra khỏi đây! Đồ sát nhân! Tên vô lại! CHÚA phạt mày vì tất cả những vụ đổ máu mày gây ra trong nhà vua Sau-lơ. Vì mày đã chiếm đoạt ngôi vua khỏi nhà Sau-lơ nên CHÚA trao ngôi nước vào tay Áp-sa-lôm, con mày. Và bây giờ mày mang họa, vì mày là tên sát nhân!” Ông A-bi-sai, con bà Xê-ru-gia, thưa với vua: “Tên chó chết này sao dám rủa vua chúa tôi? Xin bệ hạ cho tôi qua chặt đầu nó!” Vua bảo: “Việc của ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xê-ru-gia? Hãy để nó rủa, vì nếu CHÚA bảo nó rủa ta, ai dám hỏi nó: ‘Tại sao ngươi làm như vậy?’ ” Vua Đa-vít lại bảo ông A-bi-sai và toàn thể triều thần: “Kìa, con trai ta, con ruột ta, còn tìm hại mạng sống ta, huống chi là tên Bên-gia-min này! Hãy để mặc nó! Cứ để nó nguyền rủa ta, vì CHÚA đã bảo nó. Biết đâu CHÚA nhìn thấy nỗi khổ của ta và ban phước lành cho ta thay vào lời nguyền rủa của nó hôm nay.” Vua Đa-vít và đoàn người của vua tiếp tục đi trên đường, trong khi Sim-y đi song song trên sườn núi, vừa đi vừa nguyền rủa vua, vừa ném đá và hất tung bụi lên. Vua và hết thảy đoàn người đi theo vua đến nơi thì mệt lả; họ nghỉ lấy sức tại đó. Ông Hu-sai Trình Diện Áp-sa-lôm Trong khi đó, Áp-sa-lôm và hết thảy những người Y-sơ-ra-ên theo ông vào thành Giê-ru-sa-lem. Có ông A-hi-tô-phen đi với họ. Khi ông Hu-sai, người Ạt-kít, bạn vua Đa-vít, đến gặp Áp-sa-lôm, ông tung hô: “Vua vạn tuế! Vua vạn tuế!” Nhưng Áp-sa-lôm hỏi ông Hu-sai: “Ông trung thành với bạn ông như vậy sao? Tại sao ông không đi theo bạn ông?” Ông Hu-sai đáp: “Tôi không đi. Người nào mà CHÚA, dân này, và toàn dân Y-sơ-ra-ên chọn, tôi sẽ theo người đó và ở với người. Hơn nữa, tôi sẽ phục vụ ai, nếu không phục vụ con của bạn tôi? Như tôi đã phục vụ thân phụ bệ hạ thế nào, tôi cũng sẽ phục vụ bệ hạ thể ấy.” Áp-sa-lôm Và Các Cung Phi Của Vua Đa-vít Kế đến, Áp-sa-lôm hỏi ông A-hi-tô-phen: “Các ông hãy bàn nhau xem chúng ta phải làm gì.” Ông A-hi-tô-phen đáp: “Bệ hạ nên đến ngủ với các cung phi thân phụ bệ hạ để lại đặng giữ cung. Khi toàn dân Y-sơ-ra-ên nghe tin bệ hạ đã làm cho thân phụ ghê tởm mình, mọi người theo bệ hạ sẽ mạnh dạn lên.” Người ta căng lều cho Áp-sa-lôm trên sân thượng của cung điện vua, và Áp-sa-lôm đến ngủ với các cung phi của cha mình. Toàn dân Y-sơ-ra-ên đều hay biết chuyện đó. Thuở ấy, người ta tôn trọng lời bàn của ông A-hi-tô-phen như lời phán của Đức Chúa Trời mỗi khi người ta cầu hỏi ý Ngài. Cả vua Đa-vít và Áp-sa-lôm đều nghe theo mọi lời bàn của ông A-hi-tô-phen như vậy. Ông Hu-sai Phá Hỏng Kế Hoạch Của Ông A-hi-tô-phen Chẳng bao lâu sau đó, ông A-hi-tô-phen đề nghị với Áp-sa-lôm: “Xin bệ hạ cho tôi chọn 12,000 quân để tôi lên đường đuổi theo Đa-vít ngay đêm nay. Tôi sẽ xông vào tấn công lúc ông ta đang mệt mỏi và ngã lòng; ông ta sẽ hoảng sợ; toàn quân ở với ông ta sẽ bỏ chạy, và tôi sẽ giết một mình nhà vua thôi. Tôi sẽ đem toàn quân trở về với bệ hạ; khi toàn quân trở về, ngoại trừ người mà bệ hạ đang tìm hại, lúc bấy giờ cả nước sẽ được bình an vô sự.” Áp-sa-lôm và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên đều công nhận kế hoạch đó tốt. Tuy nhiên, Áp-sa-lôm nói: “Hãy mời cả ông Hu-sai, người Ạt-kít, đến nữa, để chúng ta nghe thêm ý kiến ông.” Khi ông Hu-sai đến, Áp-sa-lôm nói với ông: “Ông A-hi-tô-phen sắp đặt kế hoạch như thế này. Chúng ta có nên làm theo không? Nếu không, thì xin ông cho biết ý kiến.” Ông Hu-sai đáp: “Lần này, kế hoạch ông A-hi-tô-phen đưa ra không được tốt.” Ông Hu-sai nói tiếp: “Bệ hạ biết rõ vua cha và người của ông là những dũng sĩ, và họ đang giận dữ như gấu mẹ bị mất con ngoài đồng hoang. Hơn nữa, vua cha là người thạo việc binh đao, ông ta sẽ không ngủ đêm với đạo quân đâu. Hiện giờ có thể ông ta đang ẩn núp trong hầm hố hoặc một nơi nào đó. Nếu ngay trận đầu, có vài người trong hàng ngũ chúng ta ngã xuống, ai nghe được cũng sẽ nói: ‘Đạo quân theo Áp-sa-lôm bị đánh bại.’ Bấy giờ, ngay cả những người có khí phách gan dạ như sư tử cũng khiếp sợ rụng rời, vì toàn dân Y-sơ-ra-ên đều biết rằng cha bệ hạ là một dũng sĩ, và những người theo ông là những người có khí phách. Vậy, tôi đề nghị ta nên tập hợp tất cả những chiến sĩ trong dân Y-sơ-ra-ên, từ thành Đan đến thành Bê-e-sê-ba lại chung quanh bệ hạ. Họ sẽ đông như cát biển, và bệ hạ sẽ đích thân cầm quân ra trận. Chúng ta sẽ đi đánh Đa-vít, bất luận ông ở nơi nào, và chúng ta sẽ đáp xuống trên ông ta như sương rơi phủ mặt đất. Rồi ông ta và những người theo ông ấy, sẽ không một ai sống sót. Còn nếu ông rút quân về một thành nào đó, toàn quân Y-sơ-ra-ên sẽ đem dây thừng đến kéo thành ấy xuống đáy sông cho đến khi không còn tìm thấy một viên sỏi tại đó.” Áp-sa-lôm và toàn dân Y-sơ-ra-ên đều đồng ý rằng kế hoạch của ông Hu-sai, người Ạt-kít, tốt hơn kế hoạch của ông A-hi-tô-phen, vì CHÚA đã quyết định phá hỏng mưu sâu của ông A-hi-tô-phen để giáng họa xuống Áp-sa-lôm. Giô-na-than Và A-hi-mát Đem Tin Đến Cho Vua Đa-vít Ông Hu-sai liền thuật lại cho hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha nghe: “Ông A-hi-tô-phen đã bàn như thế này với Áp-sa-lôm và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên, còn chính tôi đã bàn như thế này. Vậy bây giờ xin hai thầy sai người đem tin gấp cho vua Đa-vít, căn dặn vua đừng nghỉ đêm nơi chỗ sông cạn, trong đồng hoang, nhưng phải qua sông ngay, kẻo vua và toàn quân theo vua bị tiêu diệt.” Giô-na-than và A-hi-mát đứng đợi sẵn bên suối Rô-ghên. Một nữ tỳ thường ra suối đem tin cho họ, rồi họ đem tin về cho vua Đa-vít. Họ không dám vào thành, vì sợ bị bại lộ. Tuy nhiên, một thanh niên thấy họ và báo cho Áp-sa-lôm biết. Giô-na-than và A-hi-mát vội vàng ra đi, đến nhà một người kia ở Ba-hu-rim. Sân nhà ông này có một cái giếng. Họ leo xuống đó. Bà vợ ông này lấy tấm bố trải lên miệng giếng rồi rải thóc lên. Không ai nghi ngờ gì cả. Lính của Áp-sa-lôm đến nhà hỏi bà: “A-hi-mát và Giô-na-than ở đâu?” Bà đáp: “Họ băng qua suối rồi.” Mấy người lính tìm họ nhưng chẳng thấy, nên quay trở về Giê-ru-sa-lem. Sau khi chúng đi khỏi, hai người từ dưới giếng leo lên, và đi đem tin cho vua Đa-vít. Họ tâu với vua Đa-vít: “Xin bệ hạ và quần thần mau mau đi qua sông, vì ông A-hi-tô-phen đã bày mưu như thế này để hại vua.” Vua Đa-vít và toàn quân theo vua liền đi băng qua sông Giô-đanh. Khi trời hừng sáng, không còn sót lại một người nào chưa qua sông. Ông A-hi-tô-phen Tự Tử Khi ông A-hi-tô-phen thấy Áp-sa-lôm và các trưởng lão Y-sơ-ra-ên không nghe theo lời bàn của ông, ông thắng lừa về quê, về nhà ông ở thành Ghi-lô. Ông thu xếp việc nhà rồi treo cổ tự tử. Người ta chôn cất ông trong phần mộ của cha ông. Vua Đa-vít Ở Ma-ha-na-im Vua Đa-vít đến Ma-ha-na-im trong khi Áp-sa-lôm và toàn quân Y-sơ-ra-ên theo ông qua sông Giô-đanh. Áp-sa-lôm cử ông A-ma-sa chỉ huy quân đội thay ông Giô-áp. Ông A-ma-sa là con ông Gít-ra, thuộc dòng họ ông Ích-ma-ên17:25 Dịch theo LXX và 1Sử 2:17; nt: người Y-sơ-ra-ên Ông Gít-ra đi lại với bà A-bi-ganh; bà này là con ông Na-hách, và là em gái của bà Xê-ru-gia, mẹ của ông Giô-áp. Quân Y-sơ-ra-ên và Áp-sa-lôm đóng trại trong miền Ga-la-át. Khi vua Đa-vít đến Ma-ha-na-im, ông Sô-bi, con ông Na-hách, từ thành Ráp-ba của người Am-môn, ông Ma-ki, con ông Am-mi-ên, từ thành Lô-đê-ba, và ông Bát-xi-lai, người Ga-la-át, từ thành Rô-ghê-lim, đem mền chiếu, chậu, chén, các thứ đồ gốm đến, cùng với lúa mì, lúa mạch, bột, hạt rang, đậu tằm, đậu lăng, mật ong, sữa chua, chiên dê và phó mát lấy từ sữa bò. Họ dâng những thức ăn đó cho vua và quân binh theo vua dùng, vì họ biết ai đi qua sa mạc cũng đói, mệt, và khát lắm. Quân Của Áp-sa-lôm Bị Bại Trận Vua Đa-vít duyệt đoàn quân theo mình; vua chia họ ra thành những đơn vị 1,000 người, và những đơn vị 100 người, và cắt đặt sĩ quan chỉ huy các đơn vị. Vua Đa-vít sai quân đi: vua giao một phần ba cho ông Giô-áp, một phần ba cho ông A-bi-sai, con bà Xê-ru-gia, và là em ông Giô-áp, và một phần ba cho ông Y-tai, người Gát. Vua tuyên bố với đoàn quân: “Ta sẽ đích thân ra trận với các ngươi.” Nhưng đoàn quân can gián: “Không được, bệ hạ không nên ra trận. Vì nếu chúng tôi có thua chạy, kẻ thù sẽ chẳng quan tâm đến chúng tôi; nếu phân nửa số chúng tôi chết đi, kẻ thù cũng chẳng để ý. Nhưng bệ hạ quý bằng 10,000 chúng tôi. Vậy, tốt hơn là xin bệ hạ cứ ở trong thành lo tiếp viện chúng tôi. Vua đáp: ‘Được, ta sẽ làm điều các ngươi thấy là tốt.’ ” Vua đứng bên cổng thành trong khi toàn quân kéo ra theo đơn vị một trăm, một ngàn. Vua căn dặn ông Giô-áp, ông A-bi-sai, và ông Y-tai: “Hãy vì ta nhẹ tay với Áp-sa-lôm, con ta.” Toàn thể các binh sĩ đều nghe vua dặn dò tất cả các vị chỉ huy về Áp-sa-lôm. Đoàn quân kéo ra đồng nghênh chiến quân Y-sơ-ra-ên, và cuộc giao tranh xảy ra trong rừng Ép-ra-im. Quân của vua Đa-vít đánh bại quân Y-sơ-ra-ên tại đó. Quân Y-sơ-ra-ên thua nặng ngày hôm ấy, 20,000 người bị giết chết. Cuộc giao tranh lan ra khắp vùng; ngày hôm ấy, số binh sĩ chết trong rừng nhiều hơn chết vì gươm. Áp-sa-lôm Bị Ông Giô-áp Giết Chết Một số binh sĩ của vua Đa-vít tình cờ bắt gặp Áp-sa-lôm đang cưỡi la. Khi con la chui dưới những nhánh cây chằng chịt của một cây sồi lớn, đầu ông bị kẹt cứng giữa mấy cành cây; con la ông cưỡi vẫn tiếp tục đi nên ông bị treo giữa trời và đất. Một người trông thấy liền báo cho ông Giô-áp: “Tôi vừa thấy ông Áp-sa-lôm treo giữa mấy cành cây sồi.” Ông Giô-áp nói với người báo tin: “Anh thấy nó! Sao anh không giết nó ngay đó cho nó rơi xuống đất? Nếu anh hạ nó, ta chắc đã thưởng anh mười sê-ken bạc18:11 Nt: “mười miếng bạc,” một miếng bạc thường nặng bằng một sê-ken, khoảng 11.5g và một cái thắt lưng rồi!” Nhưng người ấy đáp: “Dù ông cân vào tay tôi một ngàn sê-ken bạc,18:12 Khoảng ba trăm lượng tôi cũng không dám ra tay hại hoàng tử, vì chúng tôi có nghe vua căn dặn ông, ông A-bi-sai, và ông Y-tai: ‘Hãy coi chừng, đừng cho ai hại Áp-sa-lôm, con ta.’ Nếu tôi phản vua, giết ông Áp-sa-lôm thì không thể nào giấu được vua, còn chính ông cũng sẽ đứng xa, không can thiệp vào để bào chữa cho tôi!” Ông Giô-áp quát lên: “Ta không phí thì giờ với anh như thế này nữa!”18:14 LXX, A-ram: Vậy thì ta khởi xướng trước anh! Rồi ông cầm ba cây lao trong tay, đâm vào tim ông Áp-sa-lôm, đang còn sống giữa mấy cành cây sồi. Mười người lính trẻ mang khí giới của ông Giô-áp vây quanh ông Áp-sa-lôm và đánh ông chết. Ông Giô-áp cho thổi tù và. Đoàn quân của ông Giô-áp quay về, không đuổi theo quân Y-sơ-ra-ên nữa, vì ông Giô-áp giữ quân lại. Họ lấy xác Áp-sa-lôm quăng xuống một hố sâu trong rừng, rồi chất một đống đá thật lớn phủ lên trên. Trong khi đó, toàn quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn, ai nấy về nhà mình. Khi còn sống, Áp-sa-lôm có dựng cho mình một tấm bia trong thung lũng Nhà Vua vì ông tự nhủ: “Ta không có con trai để lưu danh.” Ông lấy tên mình đặt cho tấm bia. Đến ngày nay, bia ấy vẫn còn gọi là “đài kỷ niệm Áp-sa-lôm.” Vua Đa-vít Được Tin Áp-sa-lôm Chết A-hi-mát, con thầy tế lễ Xa-đốc, thưa với ông Giô-áp: “Xin ông cho con chạy về báo tin cho vua là CHÚA đã cứu vua thoát khỏi tay quân thù.” Ông Giô-áp đáp: “Hôm nay, con không phải là người đem tin. Con sẽ đem tin một ngày nào khác, nhưng hôm nay, con không nên đem tin, vì hoàng tử đã chết.” Ông Giô-áp bảo một người lính Ê-thi-ô-bi: “Đi báo cho vua điều gì ngươi thấy.” Người Ê-thi-ô-bi sấp mình xuống lạy ông Giô-áp rồi chạy đi. A-hi-mát, con thầy tế lễ Xa-đốc, cố nài nỉ thêm: “Dù sao đi nữa, xin ông cứ cho con chạy theo sau người Ê-thi-ô-bi.” Ông Giô-áp hỏi: “Con ơi, tại sao con muốn chạy đem tin? Đem tin này, con chẳng được thưởng đâu.” A-hi-mát năn nỉ: “Dù sao đi nữa, con vẫn muốn chạy đem tin.” Ông Giô-áp bảo: “Cứ chạy đi.” A-hi-mát bắt con đường vòng chạy xuyên qua đồng bằng sông Giô-đanh, và chạy qua mặt người Ê-thi-ô-bi. Vua Đa-vít đang ngồi giữa cổng trong và cổng ngoài của thành. Người lính canh leo lên nóc cổng thành, trên đỉnh tường thành, nhìn ra xa, thấy một người đang chạy một mình. Người lính canh lớn tiếng báo tin cho vua. Vua nói: “Nếu chạy một mình, đó là người đem tin.” Khi người ấy chạy tới gần, người lính canh thấy một người khác đang chạy thì gọi vọng xuống người gác cổng: “Có một người khác đang chạy một mình!” Vua đáp: “Người này cũng đem tin nữa.” Người lính canh nói: “Tôi thấy người đầu chạy giống như A-hi-mát, con thầy tế lễ Xa-đốc.” Vua nói: “Anh ta là một người tốt, chắc anh đem tin lành.” A-hi-mát lớn tiếng chào vua: “Kính chúc bình an!” Anh sấp mình xuống đất lạy vua, và tâu: “Ngợi khen CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ, Ngài đã nộp cho bệ hạ những kẻ chống nghịch lại bệ hạ, là chúa của con!” Vua hỏi: “Áp-sa-lôm, con ta, có bình an không?” A-hi-mát thưa: “Khi ông Giô-áp, tôi tớ của bệ hạ, sai đầy tớ ngài là con đây con thấy đám đông xôn xao, nhưng không biết chuyện gì xảy ra.” Vua bảo: “Đứng lui ra bên kia!” Anh lui ra một bên, đứng chầu. Ngay lúc ấy, người Ê-thi-ô-bi đến. Anh tâu: “Xin bệ hạ là chúa tôi biết rằng hôm nay CHÚA đã giải cứu bệ hạ khỏi tay mọi kẻ dấy lên chống nghịch bệ hạ.” Vua hỏi người Ê-thi-ô-bi: “Áp-sa-lôm, con ta, có bình an không?” Người Ê-thi-ô-bi thưa: “Tâu bệ hạ, ước chi các kẻ thù của vua chúa tôi và mọi kẻ dấy lên để hại bệ hạ, đều phải chung số phận với cậu ấy!” Vua Đa-vít khóc con.18:33 Nt: Hy-bá: câu 1, chương 19 Vua xúc động run cả người. Vua đi lên phòng trên nóc cổng để khóc. Vua vừa đi vừa kêu than: “Ôi, con ơi! Áp-sa-lôm, con ơi! Con ơi! Áp-sa-lôm! Ước chi chính cha chết thế cho con! Áp-sa-lôm, con ơi, con ơi!” Có người báo cho ông Giô-áp: “Vua khóc và thương tiếc Áp-sa-lôm.” Cuộc chiến thắng ngày hôm ấy trở thành tang chế cho toàn quân khi họ nghe tin vua khóc thương con mình. Ngày hôm ấy, quân sĩ lẻn vào thành y như một đạo binh xấu hổ lẻn về khi trốn chạy khỏi chiến trận. Trong khi đó, vua trùm mặt, khóc than lớn tiếng: “Ôi, con ơi! Áp-sa-lôm, Áp-sa-lôm, con ơi, con ơi!” Vua Đa-vít Nghe Lời Khuyên Giải Ông Giô-áp vào cung gặp vua, và tâu: “Hôm nay, bệ hạ làm hổ mặt tất cả các tôi tớ của bệ hạ, là những người đã cứu sống chẳng những bệ hạ hôm nay, mà còn cứu luôn các hoàng tử, công chúa, hoàng hậu, và cung phi nữa. Bệ hạ yêu người ghét mình và ghét người yêu mình! Điều bệ hạ làm hôm nay đã tỏ cho các sĩ quan và binh sĩ thấy rõ bệ hạ coi họ không ra gì. Bệ hạ ắt sẽ vui lòng nếu hôm nay Áp-sa-lôm còn sống, dù tất cả chúng tôi đều chết hết! Vậy, bây giờ xin bệ hạ đứng lên, ra ủy lạo các tôi tớ của bệ hạ ngay. Tôi thề trước mặt CHÚA, nếu bệ hạ không ra, thì không một ai ở lại với bệ hạ đêm nay. Và đó sẽ là tai họa lớn hơn mọi tai họa bệ hạ đã từng gặp từ thời niên thiếu cho đến bây giờ!” Vua đứng lên, ra ngồi bên cổng thành. Toàn quân nghe tin vua ngồi tại cổng thành liền kéo đến chầu vua. Vua Đa-vít Được Mời Về Giê-ru-sa-lem Trong khi đó, quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn, ai nấy về nhà mình. Mọi người trong khắp các bộ tộc Y-sơ-ra-ên khởi sự bàn tán: “Chính vua đã giải cứu chúng ta khỏi tay quân thù. Chính vua đã cứu chúng ta khỏi tay quân Phi-li-tin. Và bây giờ vua phải trốn ra khỏi xứ vì Áp-sa-lôm. Còn Áp-sa-lôm mà chúng ta đã xức dầu để làm vua chúng ta, nay đã tử trận. Vậy, bây giờ tại sao anh em ngồi yên, không ngỏ lời mời vua trở về?” Lời mọi người Y-sơ-ra-ên bàn tán đến tai vua Đa-vít. Vua sai nói với hai thầy tế lễ Xa-đốc và A-bia-tha: “Xin hai thầy nói với các trưởng lão Giu-đa như thế này: ‘Tại sao anh em lại là những người cuối cùng mời vua về cung? Anh em là họ hàng, là cốt nhục của ta! Tại sao anh em lại là những người cuối cùng mời vua trở về?’ Xin hai thầy cũng nói với ông A-ma-sa như thế này: ‘Nhà ngươi là cốt nhục của ta. Nguyện Đức Chúa Trời phạt ta thế này, và nặng hơn nữa, nếu từ nay trở đi ngươi không là tướng chỉ huy quân đội của ta thay cho Giô-áp!’ ” Vua được lòng mọi người Giu-đa. Họ đồng lòng cử người đi mời vua: “Xin bệ hạ và tất cả tôi tớ của bệ hạ trở về.” Vua Đa-vít Tha Chết Cho Ông Sim-y Vua lên đường trở về. Khi vua đến sông Giô-đanh, người Giu-đa cũng đến Ghinh-ganh để đón vua và đưa vua qua sông Giô-đanh. Ông Sim-y, con ông Ghê-ra, người Bên-gia-min ở Ba-hu-rim, cũng vội vàng đi xuống với người Giu-đa để đón vua Đa-vít. Ông Sim-y dẫn theo một ngàn người Bên-gia-min. Ông Xi-ba, quản gia trong nhà vua Sau-lơ, cùng với mười lăm con trai và hai mươi đầy tớ, vội vàng đến sông Giô-đanh trước nhà vua. Họ lội đi lội về qua khúc sông cạn để đưa hoàng gia qua sông, và để làm mọi việc vua cần. Khi vua chuẩn bị qua sông Giô-đanh, ông Sim-y, con ông Ghê-ra, phủ phục trước mặt vua. Ông thưa với vua: “Xin chúa tôi đừng kể tội cho tôi! Xin bệ hạ đừng nhớ đến tội ác tôi tớ ngài phạm trong ngày vua chúa tôi ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem. Xin bệ hạ đừng để tâm đến. Vì tôi tớ ngài biết mình có lỗi, nên hôm nay tôi là người đầu tiên trong các bộ tộc miền bắc19:20 nt: nhà Giô-sép xuống đây để nghênh đón vua chúa tôi.” Ông A-bi-sai, con bà Xê-ru-gia, quát lên: “Sim-y không đáng bị xử tử vì tội ấy sao? Nó đã rủa sả đấng được CHÚA xức dầu để làm vua!” Vua Đa-vít bảo: “Việc ta can gì đến các ngươi, hỡi các con bà Xê-ru-gia, mà các ngươi lại chống đối ta ngày nay? Có nên xử tử một người nào trong nước Y-sơ-ra-ên ngày hôm nay không? Ta không biết rằng ngày nay ta là vua Y-sơ-ra-ên sao?” Vua bảo ông Sim-y: “Ta hứa với ngươi là ngươi sẽ không bị xử tử.” Vua Đa-vít Giải Quyết Sự Xung Khắc Giữa Mê-phi-bô-sết Và Xi-ba Ông Mê-phi-bô-sết, cháu nội vua Sau-lơ, cũng đi xuống đón vua. Ông không cắt móng chân cũng không tỉa râu, hay giặt áo, từ ngày vua ra đi cho đến ngày vua trở về bình an. Khi ông đi từ thành Giê-ru-sa-lem xuống đón vua, vua hỏi ông: “Mê-phi-bô-sết, tại sao con không đi với ta?” Ông thưa: “Tâu bệ hạ, chúa tôi! Đầy tớ tôi đã gạt tôi. Hạ thần có bảo nó: ‘Hãy thắng lừa cho ta cưỡi đi theo vua,’ vì hạ thần bị què. Nó đã vu khống hạ thần với bệ hạ chúa tôi. Nhưng bệ hạ chúa tôi giống như thiên sứ của Đức Chúa Trời. Xin bệ hạ xử với tôi cách nào bệ hạ thấy phải. Thật vậy, mọi người trong nhà cha ông tôi đều đáng bị vua chúa tôi xử tử, nhưng bệ hạ đã cho hạ thần được ngồi ăn chung bàn với bệ hạ. Tôi còn quyền gì nữa mà khiếu nại với bệ hạ?” Vua bảo: “Con không cần nói nữa. Ta quyết định cho con và Xi-ba chia đất với nhau.” Mê-phi-bô-sết thưa: “Xi-ba lấy hết cũng được. Bệ hạ chúa tôi trở về nhà bình an là đủ lắm cho tôi rồi.” Vua Đa-vít Thưởng Ông Bát-xi-lai Ông Bát-xi-lai, người Ga-la-át, cũng từ Rô-ghê-lim xuống, đi theo tiễn vua qua sông Giô-đanh. Ông Bát-xi-lai già lắm rồi, ông được tám mươi tuổi. Chính ông đã cung cấp thực phẩm cho vua suốt thời gian vua ở Ma-ha-na-im, vì ông rất giàu có. Vua bảo ông: “Ông hãy qua sông, về Giê-ru-sa-lem ở cạnh bên ta, ta sẽ cấp dưỡng cho ông.” Nhưng ông Bát-xi-lai thưa với vua: “Tôi còn sống bao nhiêu năm nữa mà lên Giê-ru-sa-lem với bệ hạ? Nay tôi đã tám mươi tuổi. Tôi không còn phân biệt cái hay cái dở nữa. Hạ thần không nếm được vị của đồ ăn, thức uống, cũng không thưởng thức được tiếng hát của các ca sĩ nam nữ. Hạ thần chỉ là gánh nặng cho vua chúa tôi mà thôi. Hạ thần chỉ cố gắng qua sông Giô-đanh với bệ hạ thôi, không đáng được bệ hạ trọng thưởng như vậy. Xin bệ hạ cho phép hạ thần trở về để được chết trong thành mình, gần bên phần mộ của cha mẹ mình. Tuy nhiên, có Kim-ham19:37 LXX: Kim-ham, con tôi là tôi tớ của bệ hạ đây. Xin cho nó đi theo bệ hạ chúa tôi, và xin bệ hạ đãi nó theo ý bệ hạ.” Vua đáp: “Kim-ham sẽ đi theo ta, và ta sẽ đãi nó theo ý ông. Ông muốn xin ta điều gì, ta sẽ làm cho ông.” Toàn quân đi qua sông Giô-đanh. Vua cũng đi qua. Rồi vua hôn ông Bát-xi-lai và từ giã ông. Ông Bát-xi-lai trở về quê mình. Tranh Cãi Giữa Dân Y-sơ-ra-ên Và Dân Giu-đa Vua tiếp tục đi đến Ghinh-ganh, có Kim-ham cùng đi. Toàn quân Giu-đa và phân nửa đội quân Y-sơ-ra-ên cũng đi theo vua. Bấy giờ, mọi người Y-sơ-ra-ên đến thưa với vua: “Tại sao anh em chúng tôi, là người Giu-đa, bắt cóc bệ hạ, và đưa bệ hạ cùng với hoàng gia và tất cả những người theo bệ hạ qua sông Giô-đanh?” Mọi người Giu-đa đáp: “Bởi vì chúng tôi có họ hàng với nhà vua. Tại sao anh em lại bất bình về điều này? Chúng tôi có ăn bám nhà vua không? Vua có ban cho chúng tôi quà cáp gì không?” Người Y-sơ-ra-ên đáp: “Đối với nhà vua, chúng tôi có quyền hơn anh em gấp mười lần,19:43 nt: có mười phần nơi nhà vua hơn nữa, chúng tôi sanh ra trước anh em.19:43 Dịch theo LXX; nt: ngay cả đối với Đa-vít, chúng tôi cũng hơn anh em Sao anh em lại khinh rẻ chúng tôi? Chính chúng tôi lên tiếng trước về việc rước nhà vua về.” Nhưng người Giu-đa đáp lại, lý lẽ còn cứng hơn lý lẽ của người Y-sơ-ra-ên nữa. Sê-ba Nổi Loạn Nào ngờ tại đó có một tay côn đồ, tên là Sê-ba, con ông Bích-ri, người Bên-gia-min. Sê-ba thổi tù và, kêu gọi: “Chúng ta không được phần gì nơi Đa-vít, Cũng chẳng hưởng được gì với con của Y-sai! Anh em Y-sơ-ra-ên, ai nấy hãy trở về nhà mình!” Mọi người Y-sơ-ra-ên đều bỏ vua Đa-vít, theo Sê-ba, con ông Bích-ri; nhưng người Giu-đa vẫn trung thành với vua mình, hộ tống vua từ sông Giô-đanh về Giê-ru-sa-lem. Về đến cung tại Giê-ru-sa-lem, vua sai tìm mười cung phi vua đã để lại giữ cung điện. Vua dời họ về một nhà có người canh giữ; vua cấp dưỡng cho họ nhưng không đi lại với họ. Họ ở góa trong khi chồng vẫn còn sống; và họ bị giam kín cho đến ngày chết. Ông A-ma-sa Bị Ám Sát Vua bảo ông A-ma-sa: “Ta cho ngươi ba ngày để tập họp quân đội Giu-đa về đây trình diện ta.” Ông A-ma-sa đi triệu tập binh sĩ Giu-đa, nhưng ông chậm trễ quá hạn vua ấn định. Vậy, vua Đa-vít bảo ông A-bi-sai: “Hiện giờ, Sê-ba, con Bích-ri, có thể làm hại chúng ta hơn cả Áp-sa-lôm. Ngươi hãy chỉ huy đội quân của ta20:6 nt: bầy tôi của chúa ngươi đuổi theo nó, kẻo nó chiếm được vài thành trì kiên cố nào đó và thoát khỏi chúng ta.”20:6 nt: móc mắt chúng ta Ông A-bi-sai chỉ huy đội quân của ông Giô-áp, đội vệ binh người Kê-rết và người Phê-lết, và tất cả các dũng sĩ, ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, đuổi theo Sê-ba, con ông Bích-ri. Khi họ đến gần tảng đá lớn ở Ga-ba-ôn thì gặp ông A-ma-sa đi tới. Lúc ấy, ông Giô-áp mặc binh phục; ngang đai lưng, ông đeo một thanh gươm đút trong vỏ. Khi ông bước tới, gươm tuột ra khỏi vỏ. Ông Giô-áp chào ông A-ma-sa: “Anh khỏe không?” Tay phải ông nắm lấy râu ông A-ma-sa để hôn ông. Nhưng ông A-ma-sa không để ý đến thanh gươm trong tay trái của ông Giô-áp. Ông này cầm gươm đâm vào bụng ông A-ma-sa, khiến ruột đổ ra xuống đất, và ông chết. Ông Giô-áp không cần đâm nhát thứ hai. Rồi ông Giô-áp và anh là ông A-bi-sai tiếp tục đuổi theo Sê-ba, con ông Bích-ri. Dẹp Loạn Sê-ba Một người lính của ông Giô-áp đứng bên cạnh xác ông A-ma-sa, kêu gọi: “Ai là bạn của ông Giô-áp20:11 nt: ai chuộng ông Giô-áp ai phò vua Đa-vít, hãy theo ông Giô-áp!” Nhưng anh thấy toàn quân đều dừng lại, vì xác của ông A-ma-sa đẫm máu nằm giữa đường cái. Anh liền kéo xác ông vào trong đồng, khỏi đường cái, rồi ném một cái áo lên trên, vì anh thấy ai đến nơi cũng dừng lại. Một khi xác đã dời khỏi đường cái, mọi người đều đi qua theo ông Giô-áp đuổi bắt Sê-ba, con ông Bích-ri. Sê-ba đi qua suốt lãnh thổ của tất cả các bộ tộc Y-sơ-ra-ên, đến thành A-bên Bết-ma-a-ca. Tất cả những người trong gia tộc Bích-ri tập họp lại theo Sê-ba cũng vào luôn trong thành. Toàn quân của ông Giô-áp đến vây hãm Sê-ba trong thành A-bên Bết-ma-a-ca. Họ đắp lũy sát vào tường ngoài và đang đào phá cho tường thành đổ xuống, thì một người đàn bà khôn ngoan từ trên tường thành gọi vọng xuống: “Xin nghe đây, xin nghe đây! Xin mời tướng Giô-áp đến gần đây cho tôi thưa chuyện.” Khi ông Giô-áp đến gần, bà hỏi: “Thưa ông là tướng Giô-áp?” Ông đáp: “Ta đây.” Bà nói: “Xin ông nghe nữ tỳ ông thưa vài lời.” Ông bảo: “Ta nghe đây.” Bà nói tiếp: “Người xưa thường nói: ‘Phải hỏi ý dân thành A-bên mới xong việc.’ Chúng tôi là những người hiếu hòa và trung tín trong nước Y-sơ-ra-ên. Nhưng ông lại tìm cách giết hại một thành mẹ trong Y-sơ-ra-ên! Tại sao ông lại muốn hủy diệt cơ nghiệp của CHÚA?” Ông Giô-áp đáp: “Không bao giờ! Không bao giờ ta có ý định hủy diệt hay phá đổ! Không phải vậy đâu! Nhưng có một người từ miền đồi núi Ép-ra-im, tên là Sê-ba, con ông Bích-ri. Nó nổi dậy chống vua Đa-vít. Các ngươi hãy nộp nó cho ta, một mình nó thôi, thì ta sẽ rút quân, không vây thành nữa.” Bà thưa: “Chúng tôi sẽ ném đầu nó qua tường cho ông.” Bà đi gặp mọi người trong thành và trình bày ý kiến khôn ngoan của mình. Họ chặt đầu Sê-ba, con ông Bích-ri, ném xuống cho ông Giô-áp. Ông cho thổi tù và, đoàn quân rút khỏi thành và tản ra, ai về nhà nấy. Còn ông Giô-áp trở về Giê-ru-sa-lem trình diện vua. Nội Các Của Vua Đa-vít Ông Giô-áp chỉ huy toàn thể quân đội Y-sơ-ra-ên; ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, chỉ huy đoàn vệ binh người Kê-rết và người Phê-lết. Ông A-đô-ram phụ trách việc lao dịch; ông Giô-sa-phát, con ông A-hi-lút, làm quan thái sư. Ông Sê-va20:25 8:17: Sê-ra-gia làm tổng thư ký; ông Xa-đốc và ông A-bia-tha làm thầy tế lễ. Ông Y-ra người Giai-rơ cũng làm thầy tế lễ cho vua Đa-vít. Dòng Dõi Vua Sau-lơ Bị Xử Tử Dưới triều vua Đa-vít có một nạn đói kéo dài ba năm liên tiếp. Vua Đa-vít cầu hỏi ý CHÚA. CHÚA phán: “Nạn đói xảy ra vì Sau-lơ và gia đình nó có nợ máu, vì Sau-lơ đã sát hại người Ga-ba-ôn.” Người Ga-ba-ôn không thuộc thành phần dân Y-sơ-ra-ên, nhưng thuộc giống dân A-môn còn sót lại. Dân Y-sơ-ra-ên có thề không giết họ,21:2 Xem Giôs 9:3-27 nhưng vua Sau-lơ, vì lòng nhiệt thành đối với các bộ tộc Y-sơ-ra-ên và Giu-đa, đã tìm cách tiêu diệt họ. Vua truyền gọi người Ga-ba-ôn đến. Vua hỏi người Ga-ba-ôn: “Ta phải làm gì cho các ngươi? Ta có cách nào chuộc lỗi vua Sau-lơ đã phạm, để các ngươi cầu xin CHÚA ban phước lành cho cơ nghiệp của Ngài?” Người Ga-ba-ôn thưa: “Bạc vàng không thể giải quyết vấn đề giữa chúng tôi với vua Sau-lơ và dòng dõi vua. Mặt khác, chúng tôi không có quyền giết ai trong dân Y-sơ-ra-ên.” Vua bảo: “Các ngươi muốn xin bất cứ điều chi, ta sẽ làm cho.” Họ tâu với vua: “Đối với người đã sát hại chúng tôi, và mưu toan tuyệt diệt chúng tôi, để chúng tôi không còn tồn tại trên khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên, xin bệ hạ giao cho chúng tôi bảy người thuộc con cháu của người đó, để chúng tôi treo lên trước mặt CHÚA, tại Ghi-bê-a, thành của vua Sau-lơ, là vua được CHÚA tuyển chọn.”21:6 LXX: tại Ga-ba-ôn, trên núi của CHÚA Vua bảo: “Ta sẽ giao chúng nó cho các ngươi.” Vua tha chết cho ông Mê-phi-bô-sết, con ông Giô-na-than, và là cháu nội vua Sau-lơ, vì lời thề với CHÚA giữa hai người, nghĩa là giữa vua Đa-vít và Giô-na-than, con vua Sau-lơ. Vua bắt Ạt-mô-ni và Mê-phi-bô-sết, hai người con trai mà bà Rít-ba, con gái ông Ai-gia, đã sanh cho vua Sau-lơ. Vua cũng bắt năm người con trai mà bà Mê-ráp21:8 Dịch theo LXX, xem 1Sa 18:19; nt: Mi-canh con gái vua Sau-lơ, đã sanh cho ông Át-ri-ên, con ông Bát-xi-lai, người Mê-hô-la. Vua giao chúng cho người Ga-ba-ôn. Họ treo chúng trên núi, trước mặt CHÚA. Bảy người chết cùng một lúc. Chúng bị xử tử vào những ngày đầu mùa gặt, khi người ta khởi sự gặt lúa mạch. Bà Rít-ba, con gái ông Ai-gia, lấy tấm vải thô trải trên một tảng đá, và bà ở đó từ đầu mùa gặt cho đến khi mưa từ trời đổ xuống trên các xác chết. Ban ngày, bà không cho chim trời đậu trên xác, còn ban đêm, bà không cho thú rừng đến gần. Có người báo cho vua Đa-vít biết những điều bà Rít-ba, con gái ông Ai-gia, cung phi của vua Sau-lơ, đã làm. Vua Đa-vít liền đi gặp các nhà lãnh đạo thành Gia-bết ở Ga-la-át để xin lấy hài cốt vua Sau-lơ và hài cốt con vua là ông Giô-na-than. Những người này đã lấy trộm được xác hai cha con bị quân Phi-li-tin treo lên tại quảng trường Bết-san sau khi chúng hạ sát vua Sau-lơ trên núi Ghinh-bô-a. Vua đem hài cốt vua Sau-lơ và hài cốt con vua là ông Giô-na-than, từ Gia-bết về, rồi sai người thu góp hài cốt của những kẻ bị treo, đem chôn cất cùng với hài cốt của vua Sau-lơ và của ông Giô-na-than, con vua, tại Xê-la thuộc lãnh thổ Bên-gia-min, trong phần mộ của ông Kích, cha vua Sau-lơ. Sau khi họ thi hành xong mọi điều vua truyền, Đức Chúa Trời nhậm lời vua cầu xin và ban phước cho đất nước. Giao Tranh Với Bốn Người Khổng Lồ Phi-li-tin Giao tranh lại xảy ra giữa người Phi-li-tin và dân Y-sơ-ra-ên. Vua Đa-vít đích thân cầm quân của mình đi xuống chiến đấu với người Phi-li-tin. Đang khi giao chiến, vua bỗng cảm thấy mệt mỏi. Ích-bi-bê-nốp, một người Phi-li-tin thuộc dòng giống người Ra-pha21:16 Một giống dân khổng lồ sống trong vùng đó trước khi dân Y-sơ-ra-ên đến định cư; xem Phục 2:11, 20 có cây giáo đồng21:16 Ctd: mũ trụ đồng nặng hơn ba trăm sê-ken,21:16 Khoảng 3.5kg gươm mới đeo ngang hông, quyết định giết vua Đa-vít. Nhưng ông A-bi-sai, con bà Xê-ru-gia, tiếp cứu vua. Ông tấn công người Phi-li-tin và giết nó. Bấy giờ quân binh của vua Đa-vít thề: “Bệ hạ sẽ không bao giờ ra trận với chúng tôi nữa, kẻo bệ hạ dập tắt ngọn đèn của dân Y-sơ-ra-ên.” Sau đó, giao tranh lại xảy ra với người Phi-li-tin tại Góp. Trong trận này, ông Si-bê-cai, người Hu-sai, giết được Sáp, thuộc dòng giống người Ra-pha. Trong một trận khác với người Phi-li-tin cũng tại Góp, ông Ên-ha-nan, con ông Gia-ri,21:19 nt: Gia-a-rê Ô-rê-ghim người Bết-lê-hem, giết Gô-li-át, người thành Gát,21:19 1Sử 20:5: ông Ên-ha-nan, con ông Giai-rơ, giết Lác-mi, em Gô-li-át, người thành Gát Gô-li-át có cây giáo, cán to như trục khung cửi thợ dệt. Giao tranh lại xảy ra tại thành Gát. Tại đây, có một người khổng lồ, tay chân đều có sáu ngón, tổng cộng hai mươi bốn ngón; người này cũng thuộc dòng giống người Ra-pha. Người này thách dân Y-sơ-ra-ên, liền bị ông Giô-na-than, con ông Si-mê-a, anh vua Đa-vít, giết chết. Bốn người kể trên đều thuộc dòng giống người Ra-pha, thành Gát. Chúng đều ngã gục dưới tay vua Đa-vít và quân binh của vua. Vua Đa-vít Ca Ngợi CHÚA Vua Đa-vít dâng lên CHÚA những lời của bài ca này, sau khi CHÚA giải cứu vua khỏi tay mọi kẻ thù và khỏi tay vua Sau-lơ. Vua ca: “Lạy CHÚA là núi đá, là thành lũy, là Đấng giải cứu con! Lạy Đức Chúa Trời là núi đá cho con nương náu, Ngài là thuẫn khiên che chở con, Là Đấng quyền năng cứu chuộc con,22:3 nt: là sừng cứu rỗi của con Là tháp cao kiên cố, là nơi con trú ẩn, Là Đấng giải cứu, Ngài cứu con thoát khỏi kẻ bạo hành! Lạy CHÚA, con ca ngợi Ngài! Khi con kêu cầu CHÚA, Ngài giải thoát con khỏi kẻ thù nghịch con. Sóng tử thần vây lượn chung quanh, Thác diệt vong cuộn xoay chực sẵn, Dây Âm phủ vương vấn bao quanh, Bẫy tử thần đón chờ con sập. Phút gian nguy con kêu cầu CHÚA, Kêu xin Ngài là Đức Chúa Trời của con, Từ đền thánh Ngài nghe tiếng con, Ngài lắng tai nghe tiếng con kêu cứu. Bấy giờ, đất chuyển mình rúng động, Nền móng các tầng trời rung chuyển lung lay, Vì Chúa nổi giận. Khói bốc lên từ mũi Ngài, Miệng Ngài phát ra ngọn lửa thiêu nuốt Và than hồng cháy rực. Chúa xé các tầng trời, ngự xuống, Chân đạp lớp mây dày đen nghịt. Chúa cưỡi thần hộ giá, vụt bay, Và xuất hiện trên cánh gió. Trướng rủ quanh Ngài là bóng tối, Khối mây dày đọng nước. Than hồng cháy rực Chói sáng trước mặt Ngài. CHÚA cho sấm nổ rền trời, Đấng Tối Cao lên tiếng vang dội. Ngài bắn tên, khiến quân thù tán loạn, Phát chớp nhoáng, chúng bỏ chạy tan hàng. CHÚA quở một tiếng, Đáy biển xuất hiện; Ngài nổi giận, Nền móng trái đất phơi trần. Từ trời cao Chúa đưa tay nắm lấy con, Vớt con lên khỏi nước sâu thăm thẳm. Ngài cứu con thoát khỏi kẻ thù cường bạo, Khỏi những kẻ ghét con, và mạnh thế hơn con. Chúng tấn công con ngày con lâm nạn, Nhưng CHÚA phù hộ con. Ngài đưa con ra khỏi cảnh nguy nan, Ngài giải cứu con vì Ngài thương con. CHÚA ban thưởng con vì con vâng lời Ngài, Ngài ban phước cho con vì tay con trong sạch. Con giữ theo các đường lối CHÚA dạy, Không làm ác xây bỏ Đức Chúa Trời con tôn thờ. Con vâng theo mọi mạng lệnh Ngài truyền, Không lìa bỏ một điều răn nào. Chúa biết con hoàn toàn vâng theo Ngài, Và giữ mình, không làm điều ác. Vậy, CHÚA ban phước cho con vì con vâng lời Ngài, Vì Chúa biết con trong sạch. Chúa bền lòng thương xót người nào trung thành vâng lời Ngài, Chúa đối xử trọn vẹn với người hoàn toàn vâng theo Ngài. Chúa đối xử ngay thẳng với người chân thật thanh liêm, Nhưng Ngài trừng phạt kẻ gian xảo xứng đáng với việc làm của chúng. Chúa giải cứu người khiêm nhu hạ mình, Nhưng mắt Ngài thấy kẻ kiêu ngạo, Ngài hạ họ xuống. Lạy CHÚA, Ngài là ngọn đèn của con, CHÚA soi chiếu vào đời con, xua tan bóng tối tử vong và tội lỗi. Nhờ sức Ngài, con tấn công quân thù, Cậy ơn Đức Chúa Trời, con phóng qua tường thành. Lạy Đức Chúa Trời, đường lối Ngài trọn vẹn; Lời CHÚA hứa đáng tin cậy hoàn toàn. Ngài là thuẫn khiên che chở Mọi người ẩn náu bên Ngài. Ngoài CHÚA ra, ai là Đức Chúa Trời? Ai là núi đá an toàn, ngoài Đức Chúa Trời chúng con tôn thờ? Lạy Đức Chúa Trời, Ngài là nơi trú ẩn vững chắc của con, Ngài giữ cho con đi lại an toàn. Ngài cho chân con nhanh nhẹn như chân nai, Ngài đặt con đứng vững vàng trên đỉnh núi. Chúa luyện tay con thạo việc chinh chiến, Cánh tay con giương nổi cung đồng. Chúa che chở và giải cứu con, Chúa hạ mình xuống để nâng con lên. Chúa mở rộng đường cho con bước đi, Nên con không vấp ngã. Con đuổi theo, hủy diệt quân thù, Chỉ trở về sau khi tận diệt chúng. Con tận diệt chúng, con đập tan chúng, Chúng không đứng dậy nổi, chúng ngã gục dưới chân con. Chúa ban cho con sức mạnh để chiến đấu, Chúa khiến đối phương quỳ mọp dưới chân con. Chúa bắt kẻ thù quay lưng chạy trốn, Con tiêu diệt những kẻ oán thù con. Chúng kêu cứu nhưng không ai cứu giúp, Chúng kêu cầu CHÚA, nhưng Ngài không đáp lời. Con nghiền tan chúng như bụi đất, Con giẫm nát chúng, chà đạp chúng như bùn ngoài đường. Dân con phản loạn, Chúa cứu con thoát khỏi; Ngài giữ con làm đầu các nước, Dân xa lạ phải thần phục con. Người nước ngoài cúi mọp trước mặt con, Nghe đến con, tức khắc tuân theo. Người nước ngoài tiêu tan khí phách, Từ trong đồn lũy, run rẩy bước ra. Lạy CHÚA Hằng Sống! Con ca ngợi Ngài là núi đá cho con nương náu! Con tôn vinh Đức Chúa Trời, Ngài là núi đá che chở con, Ngài cứu con thoát khỏi hiểm nguy! Lạy Đức Chúa Trời, Ngài là Đấng báo thù cho con, Ngài bắt các dân thần phục con, Ngài giải cứu con khỏi kẻ thù, Cho con chiến thắng đối phương, Cứu con thoát khỏi kẻ bạo tàn. Vì thế, lạy CHÚA, con xin tôn vinh Ngài giữa muôn dân, Và ca hát ngợi khen danh Ngài. Chúa ban chiến thắng vẻ vang cho vua Ngài chọn, Chúa yêu thương người được Chúa xức dầu với tình yêu bền bỉ, không dời đổi. Chúa yêu thương Đa-vít và dòng dõi người đến muôn đời.” Những Lời Cuối Cùng Của Vua Đa-vít Đây là những lời cuối cùng của vua Đa-vít: Lời của Đa-vít, con ông Y-sai, Lời của người được nhấc lên cao,23:1 Qumran, LXX: được Đức Chúa Trời dấy lên Người được Đức Chúa Trời của nhà Gia-cốp xức dầu tấn phong; Người sáng tác những bài ca được dân Y-sơ-ra-ên ưa chuộng: Thần Linh CHÚA dùng ta phán dạy, Sứ điệp Ngài ở nơi lưỡi ta. Đức Chúa Trời của dân Y-sơ-ra-ên truyền dạy, Núi Đá của dân Y-sơ-ra-ên phán với ta: “Người nào cai trị nhân loại cách công minh, Người nào cai trị với lòng kính sợ Đức Chúa Trời, Sẽ như ánh sáng ban mai, lúc mặt trời mọc Vào một buổi sáng trời quang mây tạnh, Ánh hào quang rực rỡ sau cơn mưa, Làm cây cỏ xanh tươi mọc lên từ lòng đất.” Đức Chúa Trời chắc chắn sẽ ban phước cho dòng dõi ta như vậy! Vì Ngài đã lập với ta một giao ước đời đời, Có quy định đầy đủ, không đổi dời. Mọi thành công, mọi điều ta ao ước, Ngài sẽ cho nẩy mầm. Nhưng phường gian ác, hết thảy chúng đều bị nhổ bỏ như gai gốc. Không ai dám nắm chúng trong tay. Người nào đụng đến chúng, Phải có dụng cụ bằng sắt, hoặc gỗ, cây giáo. Chúng bị đốt cháy rụi trong lửa, ngay tại chỗ. Ba Dũng Sĩ Của Vua Đa-vít Đây là tên các dũng sĩ của vua Đa-vít: ông Giô-sép Ba-sê-bết,23:8 LXX: Ích-bô-sết, Ích-ba-anh người Tách-kê-môn, đứng đầu các dũng sĩ.23:8 Ctd: Bộ Ba Người ta cũng gọi ông là A-đi-nô, người Ê-xen. Ông giết chết tám trăm người cùng một lúc. Kế đến trong số ba dũng sĩ là ông Ê-lê-a-sa, con ông Đô-đô, người A-hô-hi. Ông theo vua Đa-vít khi họ thách quân Phi-li-tin đã tụ tập về đó để giao chiến. Quân Y-sơ-ra-ên rút lui. Nhưng ông giữ vững vị trí và chém giết quân Phi-li-tin cho đến khi bàn tay ông mệt mỏi dính chặt vào thanh gươm. Quân Y-sơ-ra-ên trở về ủng hộ ông, nhưng chỉ để lột xác chết. Ngày hôm ấy, CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang. Kế đến là ông Sam-ma, con ông A-ghê, người Ha-ra. Quân Phi-li-tin tụ về Lê-hi. Tại đó có một thửa đất trồng đậu lăng. Quân Y-sơ-ra-ên chạy trốn quân Phi-li-tin. Nhưng ông đứng giữa thửa đất, đánh giết quân Phi-li-tin và bảo vệ vườn đậu. CHÚA cho dân Y-sơ-ra-ên chiến thắng vẻ vang. Thành Tích Của Ba Dũng Sĩ Trong Nhóm Ba Mươi Ba người trong Nhóm Ba Mươi dũng sĩ hàng đầu đi xuống hang đá A-đu-lam vào mùa gặt để gặp vua Đa-vít. Một đạo binh Phi-li-tin đang đóng quân trong thung lũng Rê-pha-im. Chúng đã chiếm đóng thành Bết-lê-hem. Lúc ấy, vua Đa-vít đang ở trong đồn ẩn náu. Vua nhớ nhà và nói: “Ước chi có ai cho ta uống nước lấy ở giếng từ cổng thành Bết-lê-hem!” Vậy ba dũng sĩ đột nhập trại quân Phi-li-tin, lấy nước từ giếng bên cổng thành Bết-lê-hem, đem về cho vua Đa-vít. Nhưng vua từ chối, không uống. Vua đổ nước ra, dâng lên CHÚA. Vua thưa: “Lạy CHÚA, xin đừng cho con uống nước ấy, vì đây là máu của những người đã liều mạng mình đi lấy về cho con.” Vậy vua từ chối, không uống nước. Đó là những thành tích của ba dũng sĩ. A-bi-sai Và Bê-na-gia Ông A-bi-sai, anh ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia, đứng đầu các dũng sĩ.23:18 Syr: ba mươi Ông vung gươm, chém giết 300 người, nên có tên trong nhóm ba dũng sĩ. Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi23:19 Syr; c.23; nt: Bộ Ba và chỉ huy họ, nhưng không được vào Bộ Ba. Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, ở Cáp-xê-ên, là con một dũng sĩ, đạt được nhiều thành tích. Chính ông đã giết hai con trai của ông A-ri-ên, người Mô-áp. Chính ông cũng đã xuống hầm giết một con sư tử vào một ngày tuyết giá. Chính ông cũng đã giết một tên Ai-cập khổng lồ. Tên Ai-cập cầm giáo, trong khi ông Bê-na-gia chỉ có cây gậy. Ông giật cây giáo khỏi tay tên Ai-cập, và lấy giáo của nó mà giết nó. Ông Bê-na-gia, con ông Giê-hô-gia-đa, đã lập được những thành tích đó nên ông có tên trong nhóm ba dũng sĩ. Ông được tôn trọng hơn Nhóm Ba Mươi, nhưng không được vào Bộ Ba. Vua Đa-vít cử ông chỉ huy đoàn vệ binh. Nhóm Ba Mươi Trong Nhóm Ba Mươi có ông A-sa-ên, em ông Giô-áp; Ên-ha-nan, con ông Đô-đô, ở Bết-lê-hem; ông Sam-ma ở Ha-rốt; ông Ê-li-ca cũng ở Ha-rốt; ông Hê-lết, người Phan-ti, ông Y-ra, con ông Y-kết ở Thê-cô-a; ông A-bi-ê-se ở A-na-tốt; ông Mê-bu-nai ở Hu-sa; ông Sanh-môn, thuộc dòng dõi ông A-hô-a; ông Ma-ha-rai ở Nê-tô-pha; ông Hê-lép, con ông Ba-a-na, ở Nê-tô-pha; ông Y-tai, con ông Ri-bai, ở Ghi-bê-a thuộc lãnh thổ Bên-gia-min; ông Bê-na-gia ở Phi-ra-thôn; ông Hi-đai ở vùng khe suối núi Ga-ách; ông A-bi-anh-bôn ở A-ra-ba; ông Át-ma-vết ở Ba-hu-rim; ông Ên-gia-ba ở Sa-an-bim; ông Gia-sen ở Gu-ni; ông Giô-na-than, con ông Sam-ma ở Ha-ra; ông A-hi-am, con ông Sa-ra, ở A-ra; ông Ê-li-phê-lết, con ông A-hát-bai ở Ma-a-ca; ông Ê-li-am, con ông A-hi-tô-phen ở Ghi-lô; ông Hết-rai ở Cạt-mên; ông Pha-rai ở A-ráp; ông Gích-an, con ông Na-than ở Xô-ba; ông Ba-ni, người Gát; ông Xê-léc người Am-môn; ông Na-ha-rai ở Bê-ê-rốt, người mang khí giới của ông Giô-áp, con bà Xê-ru-gia; ông Y-ra người Gít-rơ; ông Ga-rép, người Gít-rơ; ông U-ri người Hết. Tổng cộng là 37 dũng sĩ. Điều Tra Dân Số CHÚA lại nổi giận với dân Y-sơ-ra-ên. Ngài giục vua Đa-vít gây hại cho họ. Ngài phán với vua: “Hãy đi đếm dân Y-sơ-ra-ên và dân Giu-đa.” Vua bảo ông Giô-áp, tướng chỉ huy quân lực, đang ở với vua: “Hãy đi điều tra dân số khắp các bộ tộc Y-sơ-ra-ên, từ thành Đan phía bắc đến Bê-e-sê-ba ở phía nam, cho ta biết tổng số dân trong tuổi lính tráng là bao nhiêu.” Ông Giô-áp tâu với vua: “Cầu xin CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ ban cho bệ hạ một đội quân đông gấp trăm lần đội quân hiện tại. Cầu xin Ngài cho chính mắt vua chúa tôi thấy được điều đó. Nhưng tại sao vua chúa tôi lại muốn làm việc này?” Tuy nhiên lệnh vua truyền không thay đổi, nên ông Giô-áp và các sĩ quan trong quân lực buộc lòng phải cáo lui và ra đi điều tra dân số khắp lãnh thổ Y-sơ-ra-ên. Họ đi qua sông Giô-đanh và khởi sự đếm dân số từ thành A-rô-e, và một thành ở giữa thung lũng24:5 Sông Ạt-nôn rồi đi lên hướng địa phận Gát24:5 Dịch theo LXX; nt: đóng trại gần A-rô-e, phía nam thành ở giữa thung lũng Gát đến thành Gia-xe. Họ đến địa phận Ga-la-át, đi xuyên qua lãnh thổ người Hết, đến thành Ca-đết,24:6 Ctd: xuyên qua vùng phía nam núi Hẹt-môn; nt: đến miền Ta-tim Hốt-si đến Đan Gia-an rồi vòng về thành Si-đôn. Họ đến Ty-rơ, một thành lũy kiên cố, và đi khắp các thành của người Hê-vít và người Ca-na-an. Cuối cùng, họ đến Bê-e-sê-ba, thuộc vùng sa mạc miền nam địa phận Giu-đa. Họ trở về thành Giê-ru-sa-lem sau khi đi khắp lãnh thổ, mất chín tháng hai mươi ngày. Ông Giô-áp trình lên vua kết quả cuộc điều tra dân số: Y-sơ-ra-ên có 800,000 binh sĩ biết tuốt gươm, và Giu-đa có 500,000 ngàn. Bệnh Dịch Sau khi điều tra dân số xong, vua Đa-vít bị lương tâm cắn rứt và thưa với CHÚA: “Lạy Chúa, con đã làm một việc rất ngu dại và phạm tội nặng. Giờ đây, con xin CHÚA tha tội cho đầy tớ của Ngài.” Sáng hôm sau, trước khi vua Đa-vít dậy, CHÚA bảo tiên tri Gát, là tiên tri phục vụ tại triều vua Đa-vít: “Con hãy đi nói với Đa-vít: ‘CHÚA phán như vầy: Ta có ba cách để sửa trị ngươi. Ta cho phép ngươi chọn một trong ba, rồi Ta sẽ theo đó mà sửa trị ngươi.’ ” Tiên tri Gát đến thuật lại cho vua Đa-vít nghe. Tiên tri hỏi vua: “Bệ hạ chọn điều nào: bảy năm đói kém trên khắp lãnh thổ của bệ hạ, hoặc ba tháng bệ hạ phải chạy trốn trong khi quân thù đuổi theo bệ hạ, hoặc ba ngày bệnh dịch lan tràn khắp đất nước? Bây giờ, xin bệ hạ cân nhắc thận trọng, xem tôi phải thưa lại Đấng sai bảo tôi như thế nào.” Vua Đa-vít nói với tiên tri Gát: “Ta bối rối vô cùng, ta khó chọn quá. Thà chúng ta rơi vào tay CHÚA còn hơn, vì Ngài rộng lòng thương xót! Xin đừng cho ta rơi vào tay loài người!” Vậy CHÚA giáng bệnh dịch xuống dân Y-sơ-ra-ên từ sáng hôm đó cho đến giờ ấn định. Từ Đan đến Bê-e-sê-ba, có 70,000 người chết. Thiên sứ đưa tay ra hướng về thành Giê-ru-sa-lem để hủy diệt thành, nhưng CHÚA không muốn gây thêm khổ đau nên bảo thiên sứ đang hủy diệt dân chúng: “Đủ rồi! Rút tay về đi!” Bấy giờ thiên sứ của CHÚA ở bên sân đạp lúa của ông A-rau-na, người Giê-bu. Khi vua Đa-vít thấy thiên sứ giết hại dân chúng, vua thưa với CHÚA: “Chính con là người phạm tội, chính con là người lỗi lầm! Còn những con chiên này, chúng có làm gì đâu? Xin cho tay CHÚA giáng xuống con và dòng họ nhà cha con!” Vua Đa-vít Dựng Bàn Thờ Ngay hôm ấy, tiên tri Gát đến nói với vua Đa-vít: “Xin bệ hạ đi đến sân đạp lúa của ông A-rau-na người Giê-bu và dựng tại đó một bàn thờ để thờ CHÚA.” Vua Đa-vít đi ngay theo lời chỉ dẫn của tiên tri Gát, y như CHÚA đã truyền dạy ông. Ông A-rau-na nhìn ra, thấy vua và triều thần tiến về phía mình, ông liền đi ra, cúi sấp mặt xuống đất, vái lạy vua. Ông A-rau-na thưa: “Tâu vua chúa tôi đến gặp hạ thần có điều chi dạy bảo?” Vua Đa-vít bảo: “Ta đến mua sân đạp lúa của ngươi. Ta phải dựng bàn thờ lên tại đây để thờ CHÚA và để cho bệnh dịch này ngưng, không hủy diệt dân chúng nữa.” Ông A-rau-na thưa với vua Đa-vít: “Xin vua chúa tôi tùy nghi sử dụng sân đạp lúa này và dâng tế lễ theo ý bệ hạ. Thưa đây có sẵn bò để dâng tế lễ toàn thiêu, cũng có bàn đạp lúa và ách bò để làm củi. Tâu bệ hạ, A-rau-na xin dâng bệ hạ tất cả những thứ đó.” Ông A-rau-na thưa tiếp: “Cầu xin CHÚA là Đức Chúa Trời của bệ hạ nhậm lời bệ hạ!” Nhưng vua đáp: “Không được. Ta muốn mua và trả tiền sòng phẳng cho ngươi. Ta không muốn dâng lên CHÚA là Đức Chúa Trời của ta những tế lễ toàn thiêu mà ta không mất tiền mua.” Vậy vua Đa-vít mua sân đạp lúa và bò với giá khoảng năm chục sê-ken bạc.24:24 Khoảng 16 lượng Vua Đa-vít dựng lên tại đó một bàn thờ để thờ CHÚA. Vua dâng lên CHÚA tế lễ toàn thiêu và tế lễ cầu an. CHÚA nhậm lời vua cầu xin cho đất nước, và bệnh dịch ngưng hủy hoại dân Y-sơ-ra-ên.