- New Vietnamese Bible 2014 Rô-ma Thư Của Phao-lô Gửi Các Tín Hữu Tại RÔ-MA Rô-ma Thư Của Phao-lô Gửi Các Tín Hữu Tại RÔ-MA Giới Thiệu Phao-lô gửi thư cho Hội Thánh tại Rô-ma để báo tin và chuẩn bị cho cuộc viếng thăm hội thánh của ông. Phao-lô dự định sẽ thăm và hoạt động tại Rô-ma một thời gian rồi sau đó nhờ sự hỗ trợ của họ ông sẽ đi Tây Ban Nha. Thư Rô-ma giải thích một số tín lý và những áp dụng thực tế trong đời sống tín hữu. Sách Rô-ma cũng chứa đựng lời giải thích đầy đủ nhất của Phao-lô về sứ điệp ông truyền bá. Sau những lời chào thăm, và nhắc nhở tín hữu Rô-ma rằng ông cầu nguyện cho họ, Phao-lô nói đến chủ đề của lá thư: “Vì trong Phúc Âm ấy sự công chính của Đức Chúa Trời được tỏ ra từ đức tin đến đức tin như Kinh Thánh chép ‘Này người công chính sẽ sống bởi đức tin.’ ” Phao-lô khai triển chủ đề bằng cách tuyên bố rằng tất cả mọi người, người Do Thái lẫn người ngoại quốc đều cần được phục hồi sự công chính trước mặt Đức Chúa Trời vì mọi người đều đang ở dưới quyền lực của tội lỗi. Loài người được công chính nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-su. Kế đến Phao-lô mô tả cuộc sống mới trong Chúa Cứu Thế, tức là kết quả của mối liên hệ mới giữa tín hữu và Đức Chúa Trời. Người tín hữu cũng được Đức Thánh Linh giải thoát khỏi quyền năng của tội lỗi và sự chết để có một đời sống bình an và tự do. Trong các chương 5 đến 8 Phao-lô thảo luận về mục đích của Kinh Luật và quyền năng của Đức Thánh Linh trong đời sống tín hữu. Ông cũng bàn đến vấn đề người Do Thái trong chương trình cứu rỗi nhân loại qua Chúa Cứu Thế Giê-su. Phao-lô cho biết rằng đến cuối cùng người Do Thái sẽ không từ khước Chúa Cứu Thế nữa. Phần cuối của thư Phao-lô khuyên bảo tín hữu phải sống như thế nào; hãy sống với nhau trong tình yêu thương; cách phục vụ Chúa, cách sống đối với chính quyền; vấn đề lương tâm. Phao-lô kết thúc lá thư với lời chào và ca ngợi Đức Chúa Trời. Bố Cục 1. Giới thiệu và chủ đề 1:1-17 2. Nhân loại cần sự cứu rỗi 1:18–3:20 3. Sự cứu rỗi của Đức Chúa Trời 3:21–4:25 4. Đời sống mới trong Chúa Cứu Thế Giê-su 5:1–8:39 5. Người Do Thái trong chương trình cứu rỗi của Chúa 9:1–11:36 6. Cách sống của tín hữu 12:1–15:13 7. Kết luận và lời chào 15:14–16:27 Chào Thăm Tôi là Phao-lô, tôi tớ của Chúa Cứu Thế1:1 Nt: “Xristos”, Đấng được xức dầu Giê-su, được kêu gọi làm sứ đồ và biệt riêng ra để truyền bá Phúc Âm của Đức Chúa Trời. Kính gửi tất cả các thánh đồ, là những người được Đức Chúa Trời yêu dấu tại Rô-ma. Phúc Âm này là về Con Ngài đã hứa từ trước qua các tiên tri của Ngài trong Kinh Thánh, là Đấng về thể xác thì ra từ dòng dõi vua Đa-vít, về tâm linh thánh khiết1:4 Ctd: theo Thánh Linh thì được tuyên bố là Con quyền năng của Đức Chúa Trời bởi sự sống lại từ cõi chết, đó là Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta; nhờ Ngài chúng tôi nhận được ân sủng và chức sứ đồ để vì danh Ngài đem mọi dân tộc đến sự tùng phục dựa trên đức tin; trong số những người được kêu gọi thuộc về Chúa Cứu Thế Giê-su cũng có anh chị em nữa. Nguyện xin Đức Chúa Trời, Cha chúng ta và Chúa Cứu Thế Giê-su ban ân sủng và bình an cho anh chị em. Phao-lô Muốn Thăm Rô-ma Trước hết, nhờ Chúa Cứu Thế Giê-su tôi tạ ơn Đức Chúa Trời tôi về hết thảy anh chị em vì đức tin anh chị em được đồn khắp thế giới. Vì Đức Chúa Trời, Đấng tôi hết lòng phụng sự trong việc rao giảng Phúc Âm về Con Ngài, chứng giám cho tôi rằng tôi không ngớt nhắc đến anh chị em mỗi khi cầu nguyện, nài xin Đức Chúa Trời giờ đây thuận ý cho tôi có lúc nào đó được dịp tiện đến cùng anh chị em. Vì tôi mong mỏi gặp anh chị em để chia sẻ cho anh chị em linh ân nhằm gây dựng anh chị em nghĩa là để chúng ta cùng khuyến khích nhau bởi đức tin của anh chị em và của tôi. Hỡi anh chị em, tôi không muốn anh chị em chẳng biết rằng đã bao lần tôi toan tính đến cùng anh chị em, để gặt hái ít nhiều bông trái giữa vòng anh chị em cũng như giữa vòng người ngoại quốc khác vậy, nhưng đều bị ngăn trở cho đến bây giờ. Tôi mắc nợ cả người văn minh lẫn người lạc hậu,1:14 Nt: người Hy-lạp và người dã man. Người Hy-lạp cho rằng ai không nói tiếng Hy-lạp đều là những dân tộc lạc hậu cả người thông thái lẫn người dốt nát. Vì thế tôi cũng nóng lòng đến giảng Phúc Âm cho anh chị em là những người ở Rô-ma nữa. Quyền Năng Của Phúc Âm Thật vậy, tôi không hổ thẹn về Phúc Âm vì đây là quyền năng của Đức Chúa Trời để cứu mọi người tin, trước là người Do Thái và sau là người Hy Lạp. Vì trong Phúc Âm ấy sự công chính của Đức Chúa Trời được tỏ ra từ đức tin đến đức tin như Kinh Thánh chép: “Này, người công chính sẽ sống bởi đức tin.”1:17 Hab 2:4 Tội Của Nhân Loại Vì cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời đã bộc lộ từ trời nghịch lại mọi hình thức không tôn kính Đức Chúa Trời và bất chính của những người lấy bất chính áp chế sự thật. Bởi những gì có thể biết về Đức Chúa Trời đều rõ ràng đối với họ vì Đức Chúa Trời đã tỏ bày cho họ rồi. Vì những gì của Đức Chúa Trời mà mắt trần không thấy được, kể cả quyền năng vĩnh cửu lẫn thần tính của Ngài, thì từ thuở sáng tạo vũ trụ đã được thấy rõ nhờ nhận thức về các tạo vật, nên họ không còn cách nào bào chữa được. Vì họ đã biết Đức Chúa Trời nhưng không tôn vinh cảm tạ Ngài là Đức Chúa Trời, trái lại họ suy tưởng những chuyện hư không và lòng dạ ngu dốt của họ ra tăm tối. Tự cho mình là khôn ngoan, họ đã trở thành ngu dại, đổi vinh quang của Đức Chúa Trời bất diệt ra giống như hình tượng của loài người hư nát, của chim trời, của thú đồng và loài bò sát. Vì thế theo dục vọng của lòng họ, Đức Chúa Trời đã bỏ mặc họ đắm chìm vào trong sự nhơ nhuốc đến nỗi họ cùng làm nhục thân thể mình với nhau. Họ đổi chân lý Đức Chúa Trời lấy điều giả trá và thờ lạy, phụng sự tạo vật thay vì Đấng Tạo Hóa, là Đấng đáng được chúc tôn đời đời, A-men. Bởi đó Đức Chúa Trời đã bỏ mặc họ cho tình dục bỉ ổi, ngay cả đàn bà cũng đổi cách luyến ái tự nhiên ra cách trái tự nhiên, đàn ông cũng vậy, bỏ cách luyến ái tự nhiên với đàn bà mà un đốt cuồng dục lẫn nhau, đàn ông làm điều đồi bại với đàn ông, và chuốc lấy cho mình quả báo xứng với sự sai lạc của họ. Và vì họ cho rằng không đáng nhận biết Đức Chúa Trời, nên Đức Chúa Trời cũng phó mặc họ cho tâm trí hư hỏng để làm những điều trái đạo đức. Họ đầy dẫy mọi thứ bất chính, xấu xa, tham lam, gian ác, đầy lòng ganh ghét, sát nhân, tranh cãi, man trá, hiểm độc, nói hành, gièm chê, thù ghét, xấc xược, kiêu căng, khoác lác, khéo bày việc ác, không vâng phục cha mẹ, u mê, thất tín, vô tâm, bất nhân. Tuy họ biết rõ theo sắc luật công chính của Đức Chúa Trời, những kẻ nào làm những điều như thế thì đáng chết, vậy mà chẳng những họ làm những điều đó mà thôi, nhưng còn tán thành cho những kẻ khác làm nữa. Sự Phán Xét Công Chính Của Chúa Vậy, hỡi ngươi là người lên án người khác, ngươi không làm sao bào chữa được, bởi khi ngươi lên án người khác là ngươi lên án chính mình vì ngươi làm chính những điều ngươi lên án. Vì chúng ta biết rằng Đức Chúa Trời theo chân lý phán xét người làm những việc như thế. Hỡi người, ngươi làm chính điều mà khi người khác làm thì ngươi lên án, ngươi tưởng mình sẽ thoát được sự phán xét của Đức Chúa Trời sao? Hay ngươi khinh thường lòng đầy nhân từ, khoan dung và nhẫn nại của Ngài mà không nhận biết rằng sự nhân từ của Đức Chúa Trời là để dẫn ngươi đến hối cải sao? Nhưng cứ theo lòng chai lì và không hối cải của ngươi, ngươi tích trữ cho mình thịnh nộ vào ngày thịnh nộ, là ngày sự đoán xét công bình của Đức Chúa Trời sẽ bày tỏ. Ngài là Đấng báo ứng từng người tùy theo việc họ làm. Một mặt Ngài ban sự sống vĩnh phúc cho những ai kiên tâm làm lành, tìm kiếm vinh quang, danh dự và sự bất diệt. Mặt khác đối với những kẻ vì tham vọng ích kỷ, không vâng phục chân lý nhưng chạy theo sự bất chính thì Ngài dành cho thịnh nộ và giận dữ. Ngài giáng hoạn nạn và khốn khổ trên mọi kẻ làm ác, trước là người Do Thái, sau là người Hy Lạp, nhưng ban vinh quang, danh dự và bình an cho mọi người làm lành, trước là người Do Thái, sau là người Hy Lạp. Bởi Đức Chúa Trời không thiên vị ai. Vì những ai không có Kinh Luật mà phạm tội thì cũng sẽ không Kinh Luật mà hư mất; còn ai có Kinh Luật mà phạm tội thì sẽ bị xét đoán theo Kinh Luật. Vì không phải hễ nghe suông Kinh Luật là trở thành công chính trước mặt Đức Chúa Trời nhưng ai tuân giữ Kinh Luật mới được xưng công chính. Vì khi người ngoại quốc không có Kinh Luật mà tự nhiên làm những điều Kinh Luật dạy, dù không có Kinh Luật thì đó cũng là Kinh Luật cho họ rồi. Họ tỏ ra rằng những điều Kinh Luật đòi hỏi đã được ghi trong lòng họ, lương tâm họ cũng chứng thực như thế, và tư tưởng họ tranh biện nhau khi thì lên án, khi thì bênh vực vào ngày mà Đức Chúa Trời, bởi Chúa Cứu Thế Giê-su phán xét những điều kín giấu của loài người y theo Phúc Âm của tôi. Người Do Thái Và Kinh Luật Nhưng nếu ngươi tự đắc mình là dòng giống Do Thái, ỉ lại vào Kinh Luật và khoe mình trong Đức Chúa Trời, hiểu biết ý chỉ Chúa cùng thẩm định được những điều tốt lành, nhờ được giáo huấn trong Kinh Luật, tự thị là người dẫn đường kẻ mù, là ánh sáng cho những người ở trong tối tăm, là người giáo hóa kẻ ngu, là thầy dạy cho những người ấu trĩ, vì trong Kinh Luật ngươi có được hiện thân của tri thức và chân lý. Vậy, ngươi dạy người khác mà sao không dạy chính mình? Ngươi giảng đừng trộm cắp mà sao ngươi lại trộm cắp? Ngươi bảo đừng ngoại tình sao ngươi lại ngoại tình? Ngươi gớm ghét hình tượng sao ngươi lại cướp các đền miếu? Ngươi khoe mình trong Kinh Luật, mà lại phạm pháp, làm nhục Đức Chúa Trời? Như Kinh Thánh chép: “Các ngươi đã làm cho Danh Đức Chúa Trời bị xúc phạm giữa dân ngoại quốc.”2:24 Isa 52:5 Thật vậy, sự cắt bì của ngươi chỉ thật có giá trị nếu ngươi thực hành Kinh Luật, nhưng nếu ngươi vi phạm Kinh Luật thì sự cắt bì của ngươi trở thành như không cắt bì. Vì thế nếu người không cắt bì mà giữ giới răn của Kinh Luật thì người đó sẽ chẳng được kể như đã chịu cắt bì rồi sao? Và những người thể xác không cắt bì nhưng tuân giữ Kinh Luật sẽ đoán xét ngươi là kẻ có Kinh Luật2:27 Nt: văn tự (Kinh Luật viết thành văn tự) và chịu cắt bì mà vi phạm Kinh Luật. Vì không phải người Do Thái bề ngoài là người Do Thái thật, cũng không phải cắt bì phần xác bên ngoài là cắt bì thật. Nhưng người Do Thái thật là người Do Thái bề trong và cắt bì thật là cắt bì trong lòng, bởi Thánh Linh chứ không phải bởi văn tự. Người như thế thì được khen không phải từ người ta mà từ Đức Chúa Trời. Vậy thì người Do Thái được gì thuận lợi hơn? Hay phép cắt bì có lợi ích gì? Lợi nhiều về mọi mặt. Trước hết, người Do Thái được ký thác Lời của Đức Chúa Trời. Nhưng nếu một số người không tin nhận thì sao? Sự thất tín của họ có làm vô hiệu sự thành tín của Đức Chúa Trời không? Chắc chắn là không. Đức Chúa Trời vẫn chân thật dù mọi người đều giả dối, như có chép: “Hầu cho Chúa được công nhận là công chính khi Ngài phán Và đắc thắng khi Ngài phán xét.”3:4 Ctd: khi bị kiện tụng Nhưng nếu sự bất chính của chúng ta làm tỏ rạng sự công chính của Đức Chúa Trời thì chúng ta sẽ nói làm sao? Có phải Đức Chúa Trời bất công khi Ngài giáng thịnh nộ trên chúng ta không? (Tôi nói theo lối người đời.) Chắc chắn là không. Nếu vậy làm sao Đức Chúa Trời phán xét thế gian được? Nhưng nếu chân lý của Đức Chúa Trời nhờ sự nói dối của tôi làm gia tăng vinh quang cho Ngài thì tại sao tôi còn bị xử như người có tội? Sao không nói như một số người đã vu khống chúng tôi, quả quyết là chúng tôi nói: “chúng ta cứ làm điều ác để có thể đem lại điều lành.” Những kẻ nói như thế là đáng bị hình phạt lắm. Không Có Ai Công Chính Vậy thì sao? Chúng ta có gì trổi hơn không?3:9 Ctd: Chúng ta có gì thua thiệt không? Hay: Loài người chúng ta có gì biện minh không? Hoàn toàn không; vì chúng tôi đã tuyên bố rằng người Do Thái lẫn người Hy Lạp, tất cả đều ở dưới quyền tội lỗi. Như có chép: “Chẳng có ai công chính cả, dù một người cũng không. Chẳng có ai hiểu biết. Chẳng có ai tìm kiếm Đức Chúa Trời; Tất cả đều lầm lạc, Đều trở thành vô ích; Chẳng ai làm điều lành, Không được lấy một người. Cổ họng chúng như huyệt mả mở toang, Lưỡi chúng lừa dối, Dưới môi chúng chứa nọc rắn độc; Miệng chúng nó đầy nguyền rủa và cay đắng; Chân chúng nó mau lẹ làm đổ máu, Chúng gieo rắc tàn phá và đau khổ trên đường chúng đi qua, Và chúng chẳng hề biết con đường bình an. Trước mắt chúng chẳng có sự kính sợ Đức Chúa Trời.” Nhưng chúng ta biết rằng những điều Kinh Luật dạy là dạy cho người ở dưới Kinh Luật để mọi miệng phải ngậm lại và để cả thế gian đều chịu tội trước Đức Chúa Trời. Vì không một cá nhân nào do việc làm theo Kinh Luật được xưng công chính trước mặt Ngài, vì qua Kinh Luật người ta nhận biết rõ được tội lỗi. Công Chính Bởi Đức Tin Nhưng ngày nay, không cậy vào Kinh Luật, sự công chính của Đức Chúa Trời mà Kinh Luật và các tiên tri làm chứng đã được bày tỏ ra, tức là sự công chính của Đức Chúa Trời nhờ đức tin nơi Chúa Cứu Thế Giê-su, ban cho mọi người tin, không phân biệt ai cả; vì mọi người đều đã phạm tội, thiếu mất vinh quang của Đức Chúa Trời, nhờ ân sủng của Ngài và sự cứu chuộc trong Chúa Cứu Thế Giê-su họ được xưng công chính mà không phải trả một giá nào. Đức Chúa Trời, bởi huyết của Chúa Cứu Thế Giê-su đã lập Ngài làm sinh tế chuộc tội cho mọi người tin. Như vậy Đức Chúa Trời đã tỏ ra sự công chính của Ngài bởi lòng khoan nhẫn, bỏ qua những tội phạm trong quá khứ, Ngài cũng bày tỏ ra sự công chính của Ngài trong hiện tại, chứng tỏ Ngài là công chính ngay trong việc xưng công chính người nào đặt lòng tin nơi Đức Giê-su. Vậy sự khoe khoang ở đâu? Hoàn toàn bị loại rồi. Bởi luật nào? Luật của việc làm công đức phải không? Không phải, nhưng bởi luật của đức tin. Vì chúng ta khẳng định rằng loài người được xưng công chính bởi đức tin chứ không bởi việc làm theo Kinh Luật. Hay Đức Chúa Trời chỉ là của người Do Thái mà không phải của các dân tộc khác? Không, Ngài là Đức Chúa Trời của người ngoại quốc nữa. Vì Đức Chúa Trời là một, Ngài sẽ tuyên xưng công chính những người chịu cắt bì bởi đức tin, và tuyên xưng công chính những người không cắt bì cũng bởi đức tin. Vậy qua đức tin chúng ta phế bỏ Kinh Luật sao? Chẳng phải vậy, nhưng ngược lại chúng ta làm vững Kinh Luật. Gương Của Áp-ra-ham Vậy chúng ta sẽ nói làm sao về việc Áp-ra-ham, tổ chúng ta theo phần xác, ông đã tìm thấy gì? Vì nếu Áp-ra-ham được tuyên xưng công chính bởi việc làm thì người có cớ để khoe khoang; nhưng trước mặt Đức Chúa Trời không có như vậy. Vì Kinh Thánh nói gì? “Áp-ra-ham tin Đức Chúa Trời và vì thế được kể là công chính.” Đối với người làm việc thì tiền công không được kể là ơn mà phải kể là nợ; còn đối với người không làm nhưng chỉ tin vào Đấng xưng công chính kẻ vô đạo thì đức tin của người ấy được kể là công chính. Ngay vua Đa-vít cũng nói như vậy về phước hạnh của người mà Đức Chúa Trời kể là công chính không bởi việc làm: “Phước cho người Được tha vi phạm, Được khỏa lấp tội lỗi; Phước cho những ai Mà Chúa sẽ chẳng bắt tội.”4:8 Thi 32:1-2 Vậy phước lành này chỉ ban cho người chịu cắt bì thôi hay cũng cho cả người không chịu cắt bì nữa? Vì chúng ta nói: “Bởi đức tin Áp-ra-ham được kể là công chính.”4:9 Sáng 15:6 Vậy người được kể là công chính như thế nào? Sau khi đã chịu cắt bì hay trước khi chịu cắt bì? Không phải sau mà là trước khi chịu cắt bì. Người đã nhận dấu cắt bì là dấu ấn cho sự công chính bởi đức tin mà người đã có khi chưa chịu cắt bì. Như vậy, Áp-ra-ham trở thành cha mọi người tin mà không cắt bì và họ cũng được kể là công chính, và cũng làm cha những người chịu cắt bì, là những người không phải chỉ chịu cắt bì thôi nhưng cũng bước theo dấu chân đức tin của tổ phụ Áp-ra-ham chúng ta khi người chưa chịu cắt bì nữa. Lời Hứa Thực Hiện Qua Đức Tin Vì lời hứa cho Áp-ra-ham hay cho dòng dõi người rằng người sẽ thừa hưởng thế giới không phải bởi tuân giữ Kinh Luật nhưng bởi sự công chính đến từ đức tin. Vì nếu nhờ tuân giữ Kinh Luật mà thừa hưởng cơ nghiệp thì đức tin thành vô ích, và lời hứa trở nên vô hiệu lực. Vì Kinh Luật gây ra thịnh nộ, ở đâu không có Kinh Luật thì cũng không có sự vi phạm. Cho nên bởi đức tin thì lời hứa mới dựa trên ân sủng và được bảo đảm cho toàn thể dòng dõi, không phải chỉ cho dòng dõi sống theo Kinh Luật mà cho cả dòng dõi có đức tin như Áp-ra-ham, tổ phụ của tất cả chúng ta, như Kinh Thánh chép: “Ta đã lập ngươi làm cha nhiều dân tộc.”4:17 Sáng 17:5 Trước mặt Đức Chúa Trời, Đấng người đã tin, Đấng làm cho kẻ chết sống lại và định những điều chưa có như có rồi.4:17 Ctd: khiến cái chưa hiện hữu thành hiện hữu Người vẫn tin trong hy vọng dù không còn gì để hy vọng, nên người trở thành cha của nhiều dân tộc như lời đã phán: “Dòng dõi ngươi sẽ như thế;” người không giảm sút đức tin khi thấy thân thể mình cũng như dạ bà Sa-ra như đã chết, vì người đã gần một trăm tuổi; Người không vì lòng vô tín mà nghi ngờ lời hứa của Đức Chúa Trời, nhưng được mạnh mẽ trong đức tin tôn vinh Đức Chúa Trời và hoàn toàn tin chắc rằng điều gì Đức Chúa Trời đã hứa thì Ngài cũng có đủ quyền năng làm được. Vì thế người được kể là công chính. Câu: “người được kể là công chính” không phải được ghi lại chỉ vì một mình người mà thôi, nhưng cũng vì chúng ta nữa, những người Ngài sẽ kể là công chính, là những người tin vào Đấng đã làm cho Đức Giê-su, Chúa chúng ta, từ chết sống lại, Ngài bị nộp cho chết vì tội lỗi chúng ta và được làm cho sống lại để chúng ta được xưng công chính. Kết Quả Của Sự Xưng Công Chính Vì vậy, đã được xưng công chính bởi đức tin, chúng ta được bình an với Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Cũng nhờ Ngài chúng ta được vào trong ân sủng này, là ân sủng mà chúng ta hiện đang đứng vững và hân hoan về niềm hy vọng được hưởng vinh quang của Đức Chúa Trời. Không chỉ có thế thôi, nhưng chúng ta cũng hân hoan trong hoạn nạn nữa, vì biết rằng hoạn nạn làm cho chúng ta kiên nhẫn, kiên nhẫn làm cho chúng ta được tôi luyện, tôi luyện làm cho hy vọng, và hy vọng không làm hổ thẹn. Vì tình yêu thương của Đức Chúa Trời đổ đầy lòng chúng ta bởi Đức Thánh Linh là Đấng đã được ban cho chúng ta. Thật vậy, khi chúng ta thiếu năng lực thì Chúa Cứu Thế theo đúng kỳ hạn đã chết cho kẻ vô đạo. Vì khó có ai chết cho một người công chính, họa may còn có người dám chết cho người tốt. Nhưng Đức Chúa Trời đã tỏ tình yêu thương Ngài đối với chúng ta, khi chúng ta còn là tội nhân thì Chúa Cứu Thế đã chết thay cho chúng ta. Huống chi, bây giờ chúng ta đã được xưng công chính bởi huyết của Ngài thì nhờ Ngài chúng ta lại càng được cứu khỏi thịnh nộ là dường nào. Vì nếu khi chúng ta là kẻ thù nghịch mà còn được giải hòa với Đức Chúa Trời qua sự chết của Con Ngài thì khi đã được hòa giải rồi chúng ta lại càng sẽ được cứu bởi chính sự sống của Ngài là dường nào. Không chỉ có thế, nhưng chúng ta cũng hân hoan trong Đức Chúa Trời qua Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, nhờ Ngài mà hiện nay chúng ta nhận được sự hòa giải. A-đam Và Chúa Cứu Thế Bởi thế, do một người mà tội lỗi đã vào trong thế gian, và bởi tội lỗi mà có sự chết; như thế, sự chết thâm nhập trong mọi người, vì mọi người đều đã mắc tội. Trước khi có Kinh Luật thì tội đã có trong thế gian rồi, nhưng khi chưa có luật thì tội cũng không được kể. Dầu vậy, sự chết đã ngự trị từ A-đam cho đến Môi-se, ngay cả trên những người không phạm tội giống như của A-đam. A-đam là người làm hình bóng của Đấng sẽ đến. Nhưng ân huệ thì không như sự phạm tội. Vì nếu bởi sự phạm tội của một người mà nhiều người đã chết thì ân sủng của Đức Chúa Trời và tặng phẩm đến từ ân sủng của một Người là Chúa Cứu Thế Giê-su cho nhiều người lại càng dư dật hơn bội phần. Tặng phẩm thì không như hệ quả của một người phạm tội; vì một mặt, sự phán xét một người phạm tội đưa đến hình phạt; mặt khác, ân huệ thì sau nhiều tội phạm lại đưa đến sự xưng công chính. Vì nếu bởi tội phạm của một người mà qua người đó sự chết thống trị thì cũng bởi một Người, Chúa Cứu Thế Giê-su, mà những người nhận được ân sủng và tặng phẩm công chính cách dư dật, sẽ thống trị trong đời sống bội phần hơn là dường nào? Vì thế, bởi tội phạm của một người mà mọi người bị đoán phạt. Cũng vậy, bởi việc công chính của một Người mà sự xưng công chính để được sống được rải ra cho mọi người. Như bởi sự không vâng phục của một người mà nhiều người thành ra tội nhân thì cũng bởi sự vâng phục của một Người mà nhiều người được thành ra công chính. Kinh luật đến để sự phạm pháp gia tăng; nhưng ở đâu tội lỗi gia tăng thì ân sủng lại càng dồi dào hơn, hầu cho tội lỗi thống trị bằng sự chết thể nào thì ân sủng cũng thống trị bằng sự công chính để đem lại sự sống vĩnh phúc qua Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta, thể ấy. Chết Đối Với Tội Lỗi Và Sống Trong Chúa Vậy chúng ta sẽ nói gì? Chúng ta cứ tiếp tục sống trong tội lỗi để ân sủng được dư dật sao? Không thể như vậy được. Chúng ta là những người đã chết đối với tội lỗi thì làm sao chúng ta lại cứ sống trong tội lỗi nữa? Anh chị em không biết rằng tất cả chúng ta đã được báp-tem vào trong Chúa Cứu Thế Giê-su là chúng ta được báp-tem vào trong sự chết của Ngài sao? Vậy, qua Báp-tem chúng ta được chôn với Ngài vào trong sự chết, cho nên cũng như Chúa Cứu Thế nhờ vinh quang của Cha được từ chết sống lại thì chúng ta cũng có thể sống trong đời sống mới thể ấy. Vì nếu chúng ta kết hợp với Ngài trong sự chết giống như sự chết của Ngài thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ kết hợp với Ngài trong sự sống lại của Ngài. Chúng ta biết điều này: Con người cũ của chúng ta đã bị đóng đinh vào thập tự giá với Ngài để con người tội lỗi bị diệt đi, chúng ta không còn nô lệ cho tội lỗi nữa. Vì ai chết rồi thì được thoát khỏi tội lỗi. Nhưng nếu chúng ta cùng chết với Chúa Cứu Thế thì chúng ta tin rằng chúng ta cũng sẽ sống với Ngài. Chúng ta biết rằng Chúa Cứu Thế đã từ chết sống lại, Ngài không còn chết nữa, sự chết không còn cai trị trên Ngài. Bởi vì Ngài chết là chết cho tội lỗi một lần đầy đủ cả, nhưng Ngài sống là sống cho Đức Chúa Trời. Vậy anh chị em cũng hãy coi mình thật sự chết đối với tội lỗi, và sống là sống cho Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Vì thế đừng để cho tội lỗi thống trị trên thân thể hay chết của anh chị em khiến anh chị em phải tuân theo dục vọng của nó. Đừng hiến chi thể anh chị em làm đồ dùng bất chính cho tội lỗi nữa, nhưng hãy hiến chính mình anh chị em cho Đức Chúa Trời như một người từ chết sống lại, và dâng chi thể anh chị em làm đồ dùng công chính cho Đức Chúa Trời. Vì tội lỗi sẽ không còn thống trị anh chị em, bởi anh chị em không ở dưới Kinh Luật nhưng ở dưới ân sủng. Nô Lệ Cho Sự Công Chính Vậy thì sao? Chúng ta có thể cứ phạm tội bởi vì chúng ta không ở dưới Kinh Luật mà ở dưới ân sủng phải không? Không thể như vậy được. Anh chị em không biết rằng anh chị em hiến mình làm nô lệ vâng phục ai thì anh chị em là nô lệ cho người mà anh chị em vâng phục sao? Hoặc nô lệ cho tội lỗi thì dẫn đến sự chết, hoặc cho sự vâng phục để đưa đến sự công chính sao? Nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời, trước kia anh chị em là nô lệ cho tội lỗi nhưng anh chị em đã thành tâm vâng phục mẫu mực giáo huấn đã ký thác cho anh chị em, được giải thoát khỏi tội lỗi anh chị em trở thành nô lệ cho sự công chính. Tôi nói theo cách loài người bởi vì xác thịt yếu đuối của anh chị em. Anh chị em đã từng hiến chi thể mình làm nô lệ cho sự nhơ nhuốc, tội ác thêm tội ác thể nào thì bây giờ hãy hiến chi thể mình làm nô lệ cho sự công chính để được thánh hóa thể ấy. Bởi vì khi anh chị em là nô lệ cho tội lỗi thì anh chị em được tự do đối với sự công chính. Và bấy giờ anh chị em đã nhận được thành quả gì? Thành quả mà hiện nay anh chị em hổ thẹn. Vì cuối cùng của những điều đó là sự chết. Nhưng bây giờ anh chị em đã được giải phóng khỏi tội lỗi và trở nên nô lệ cho Đức Chúa Trời thì thành quả anh chị em đạt được đưa đến thánh hóa, và chung cuộc là sự sống vĩnh phúc. Vì tiền công của tội lỗi là sự chết, nhưng tặng phẩm của Đức Chúa Trời là sự sống vĩnh phúc trong Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Hỡi anh chị em, vì tôi nói với những người biết Kinh Luật, anh chị em không biết rằng luật chỉ cai trị trên người ta trong thời gian đang còn sống sao? Bởi vậy, người đàn bà có chồng, khi chồng còn sống thì bị luật ràng buộc phải sống với chồng; nhưng nếu chồng chết thì người đàn bà được thoát khỏi luật tòng phu. Vì thế trong lúc chồng đang còn sống nếu người ấy lấy một người đàn ông khác thì sẽ bị gọi là người ngoại tình; nhưng nếu chồng chết thì người ấy được tự do khỏi luật, không còn bị gọi là người ngoại tình khi lấy một người đàn ông khác. Vậy, hỡi anh chị em của tôi, qua thân xác Chúa Cứu Thế anh chị em cũng đã chết đối với Kinh Luật để anh chị em có thể thuộc về người khác là người từ chết sống lại hầu cho chúng ta kết quả cho Đức Chúa Trời. Vì khi trước chúng ta ở trong xác thịt, thì tham dục tội lỗi nhờ Kinh Luật khích động, hoạt động trong chi thể chúng ta đưa đến kết quả là sự chết; nhưng bây giờ chúng ta được thoát khỏi luật, chết đối với điều đã giam giữ chúng ta để chúng ta phục vụ trong cách mới mẻ của Thánh Linh chứ không còn trong cách cũ của văn tự nữa. Vậy chúng ta sẽ nói gì? Kinh luật là tội sao? Chẳng hề như vậy; nếu không nhờ Kinh Luật thì tôi không biết tội là gì; tôi cũng không biết tham lam là gì nếu Kinh Luật không nói: “Ngươi chớ tham lam;” nhưng qua điều răn, tội lỗi đã nắm lấy cơ hội mà làm ra trong tôi đủ thứ tham dục; vì không có luật thì tội lỗi chết. Xưa kia không Kinh Luật thì tôi sống; nhưng khi có điều răn thì tội lỗi sống lại, còn tôi thì chết, tôi nhận ra rằng điều răn nhằm đem sự sống thì lại đưa đến chỗ chết; vì qua điều răn, tội lỗi lợi dụng cơ hội lừa dối tôi và giết chết tôi. Cho nên, Kinh Luật là thánh, điều răn cũng là thánh, công chính và tốt lành. Vậy điều lành lại trở thành sự chết cho tôi sao? Chẳng hề như vậy; nhưng chính tội lỗi, đã lấy điều lành làm cho tôi chết hầu cho nó hiện rõ ra là tội lỗi. Như thế qua điều răn, tội lỗi trở thành cực kỳ ác. Vì chúng ta biết rằng luật là thiêng liêng, nhưng tôi là con người xác thịt đã bị bán làm nô lệ cho tội lỗi. Vì tôi không hiểu điều tôi làm; tôi không làm điều tôi muốn, nhưng tôi lại làm điều tôi ghét. Nhưng nếu tôi làm điều tôi không muốn thì tôi đồng ý Kinh Luật là tốt lành. Bây giờ chẳng phải tôi làm điều đó, nhưng là tội lỗi ở trong tôi làm. Vì tôi biết rằng điều lành chẳng ở trong tôi, nghĩa là trong xác thịt tôi; vì ý muốn làm điều lành thì có trong tôi, nhưng tôi không thể làm được; vì tôi không làm điều lành tôi muốn, nhưng lại làm điều ác tôi không muốn. Nhưng nếu tôi làm điều tôi không muốn thì không còn phải là tôi làm nữa, nhưng là tội lỗi ở trong tôi. Vậy tôi tìm thấy có luật này: Đó là khi tôi muốn làm điều lành thì điều ác cứ vương vấn tôi; Vì theo con người bề trong thì tôi thích Kinh Luật của Đức Chúa Trời, Nhưng tôi nhận thấy trong chi thể tôi một luật khác tranh chiến với luật của tâm trí tôi, và bắt tôi làm nô lệ cho luật tội lỗi là luật ở trong các chi thể tôi. Khốn khổ cho tôi; ai sẽ giải cứu tôi khỏi thân thể hay chết này; Cảm tạ Đức Chúa Trời, nhờ Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Như vậy, một mặt với tâm trí, tôi phục Kinh Luật của Đức Chúa Trời, mặt khác với xác thịt, tôi phục luật của tội lỗi. Sự Sống Trong Thánh Linh Vậy bây giờ không còn sự đoán phạt đối với những người ở trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Vì trong Chúa Cứu Thế Giê-su luật của Thánh Linh sự sống đã giải thoát tôi khỏi luật của tội lỗi và của sự chết. Vì điều mà Kinh Luật không làm được bởi đã bị xác thịt làm cho suy yếu thì Đức Chúa Trời đã làm bằng cách sai Con Ngài đến trong xác thịt giống như xác thịt tội lỗi, và đã đoán phạt tội lỗi trong xác thịt, để cho những đòi hỏi công chính của Kinh Luật được trọn vẹn trong chúng ta là những người không sống theo xác thịt nhưng theo Thánh Linh. Những kẻ sống theo xác thịt thì chú tâm về những điều của xác thịt, còn những người sống theo Thánh Linh thì chú tâm về những điều của Thánh Linh. Vì tâm trí theo xác thịt là sự chết, còn tâm trí theo Thánh Linh là sự sống và bình an. Do đó tâm trí theo xác thịt là thù nghịch với Đức Chúa Trời; vì nó không thuận phục Kinh Luật của Đức Chúa Trời, và thật sự nó cũng không có khả năng thuận phục được. Ai sống theo xác thịt thì không thể nào làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Nếu Thánh Linh của Đức Chúa Trời thật sự ngự trong anh chị em thì anh chị em không sống theo xác thịt nhưng theo Thánh Linh, nếu ai không có Thánh Linh của Chúa Cứu Thế thì người đó không thuộc về Ngài. Nếu Chúa Cứu Thế ở trong anh chị em thì một mặt thân thể chết vì cớ tội lỗi, mặt khác tâm linh sống vì cớ sự công chính. Nhưng nếu Thánh Linh của Đấng làm cho Đức Giê-su từ chết sống lại ở trong anh chị em thì Đấng đã làm cho Chúa Cứu Thế Giê-su từ chết sống lại đó sẽ nhờ Thánh Linh ngự trong anh chị em làm sống lại những thân thể hay chết của anh chị em. Vậy, hỡi anh chị em, chúng ta chẳng mắc nợ xác thịt để phải sống theo xác thịt. Vì nếu anh chị em sống theo xác thịt thì anh chị em sẽ chết; nhưng nếu nhờ Thánh Linh anh chị em làm chết các việc làm của thân xác thì anh chị em sẽ sống. Vì tất cả những ai được Thánh Linh của Đức Chúa Trời dẫn dắt đều là con của Đức Chúa Trời. Anh chị em không nhận thần trí nô lệ để lại sợ hãi, nhưng là thần trí của con nuôi, nhờ đó anh chị em gọi Đức Chúa Trời là A-ba, Cha! Chính Đức Thánh Linh hiệp với tâm linh làm chứng cho chúng ta rằng chúng ta là con của Đức Chúa Trời. Nếu là con cái thì cũng là kẻ thừa tự, một mặt là kẻ thừa tự của Đức Chúa Trời, mặt khác là kẻ đồng thừa tự với Chúa Cứu Thế, vì chúng ta cùng chịu khổ với Ngài để chúng ta cũng đồng được vinh quang với Ngài. Vinh Quang Tương Lai Vì tôi xác nhận rằng những sự đau đớn trong hiện tại không đáng so với sự vinh quang trong tương lai sẽ được bày tỏ cho chúng ta. Tạo vật nôn nóng tha thiết trông chờ sự hiện ra của các con cái Đức Chúa Trời. Vì tạo vật quy phục sự hư ảo, không phải do tự nguyện, nhưng do Đấng bắt chúng quy phục trong hy vọng, bởi vì chính tạo vật sẽ được giải phóng khỏi làm nô lệ cho sự hư nát để được tự do vinh quang của con cái Đức Chúa Trời. Vì chúng ta biết rằng toàn thể tạo vật đều cùng rên xiết và quằn quại cho đến ngày nay. Không phải chỉ có vạn vật thôi mà cả chúng ta, những kẻ có quả đầu mùa của Thánh Linh, cũng rên xiết, trong lòng tha thiết trông chờ sự làm con nuôi, là sự cứu chuộc thân thể chúng ta. Trong niềm hy vọng đó chúng ta đã được cứu; nhưng hy vọng mà đã thấy rồi thì không còn là hy vọng nữa; vì điều gì người ta thấy thì còn hy vọng gì nữa? Nhưng nếu chúng ta không thấy điều chúng ta hy vọng thì chúng ta tha thiết trông chờ trong kiên trì. Tương tự như vậy, Đức Thánh Linh cũng giúp sự yếu đuối của chúng ta; vì chúng ta không biết chúng ta nên cầu xin điều gì cho phải lẽ, nhưng chính Đức Thánh Linh cầu nguyện thay cho chúng ta bằng những lời rên xiết không nói được. Đấng xét thấu lòng dạ con người biết ý tưởng của Đức Thánh Linh, vì Ngài cầu nguyện thay cho các thánh đồ theo như ý của Đức Chúa Trời. Chúng ta biết rằng mọi sự hiệp lại làm ích cho những người yêu kính Đức Chúa Trời, tức là những người được kêu gọi theo mục đích của Ngài. Vì những người Ngài đã biết trước thì Ngài cũng đã định trước cho họ nên giống như hình ảnh Con của Ngài để Con này trở thành con cả giữa nhiều anh chị em. Những người nào Ngài đã định trước thì Ngài cũng đã kêu gọi; những người Ngài đã kêu gọi thì Ngài cũng đã làm cho trở nên công chính, người nào Ngài đã làm cho công chính thì Ngài cũng đã tôn vinh. Tình Yêu Của Đức Chúa Trời Vậy thì chúng ta sẽ nói gì về những điều này? Nếu Đức Chúa Trời đứng với chúng ta thì còn ai chống nghịch được chúng ta? Đấng thật đã không tiếc chính Con Ngài nhưng đã phó Con ấy vì tất cả chúng ta thì làm sao mà Ngài chẳng ban mọi sự luôn với Con đó cho chúng ta? Ai sẽ kiện cáo những người được lựa chọn của Đức Chúa Trời? Đức Chúa Trời là Đấng xưng công chính. Ai là người sẽ kết án? Chúa Cứu Thế Giê-su là Đấng đã chết, nhưng cũng đã sống lại, đang ngự bên phải của Đức Chúa Trời, cầu khẩn thay cho chúng ta. Ai sẽ phân rẽ chúng ta khỏi tình yêu thương của Chúa Cứu Thế? Phải chăng là hoạn nạn, cực khổ, bắt bớ, đói khát, trần truồng, nguy hiểm hay gươm giáo? Như Kinh Thánh chép rằng: “Vì Ngài mà chúng tôi bị giết suốt cả ngày, Chúng tôi bị kể như chiên của lò sát sinh.”8:36 Thi 44:22 Nhưng trong tất cả những điều này chúng ta hoàn toàn chiến thắng nhờ Đấng đã yêu thương chúng ta. Vì chúng tôi tin chắc rằng không có sự chết, sự sống, các thiên sứ, các giới quyền lực, việc bây giờ, việc tương lai, các năng lực, bề cao, bề sâu, hay tạo vật nào khác có thể phân rẽ chúng ta khỏi tình yêu thương của Đức Chúa Trời trong Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Chúa Chọn Người Do Thái Trong Chúa Cứu Thế tôi nói thật, tôi không nói dối, lương tâm tôi làm chứng cho tôi trong Đức Thánh Linh rằng lòng tôi rất buồn rầu và đau đớn triền miên. Vì tôi đã từng ước nguyện chính mình chịu dứt bỏ khỏi Chúa Cứu Thế thay cho anh chị em tôi, bà con tôi về phần xác, tức là người Y-sơ-ra-ên, dân được nhận làm con nuôi, được vinh quang, có giao ước, được ban cho Kinh Luật, sự thờ phượng, và lời hứa, họ ra từ các tổ phụ, Chúa Cứu Thế về phần xác thì ra từ họ, nguyện Đức Chúa Trời, Đấng trên hết mọi loài, đáng được chúc tụng đời đời, A-men. Dĩ nhiên không phải Lời Đức Chúa Trời đã thất bại. Vì không phải tất cả những người ra từ Y-sơ-ra-ên đều là người Y-sơ-ra-ên; cũng không phải tất cả dòng giống của Áp-ra-ham đều là con của Áp-ra-ham, nhưng như có chép: “Bởi Y-sác dòng giống ngươi sẽ được gọi theo tên ngươi.” Nghĩa là không phải con cái về phần xác là con cái Đức Chúa Trời, nhưng con cái của lời hứa mới được kể là dòng giống thật. Về lời hứa thì có lời nói thế này: “Sang năm cũng vào kỳ này ta sẽ đến và Sa-ra sẽ có một con trai.” Không chỉ vậy thôi, nhưng khi Rê-bê-ca từ một người là Y-sác, tổ phụ chúng ta mà có thai; thì dù hai con chưa được sinh ra, cũng chưa làm điều gì thiện hay ác, để cho mục đích theo sự lựa chọn của Đức Chúa Trời được giữ vững, không do việc làm nhưng do sự kêu gọi của Chúa, thì bà được nói cho biết: Đứa lớn sẽ phục vụ đứa nhỏ; như đã có chép: “Ta yêu Gia-cốp, nhưng ghét Ê-sau.”9:13 Mal 1:2-3 Vậy chúng ta sẽ nói làm sao? Không phải Đức Chúa Trời bất công đó sao? Chẳng hề như vậy. Vì Chúa có nói với Môi-se rằng: “Ta sẽ thương xót với kẻ nào Ta muốn thương xót, Ta sẽ nhân từ với kẻ nào Ta muốn nhân từ.”9:15 Xuất 33:19 Vì thế không phải bởi người ta ước muốn, cũng không phải bởi bôn ba mà được, nhưng bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời. Kinh Thánh phán với Pha-ra-ôn rằng: Chính vì điều này mà Ta lập ngươi lên, để Ta có thể dùng ngươi tỏ quyền năng của Ta ra, và để cho Danh Ta được vang ra khắp đất. Như vậy Ngài muốn thương xót ai thì thương xót, muốn làm cứng lòng ai thì làm. Thịnh Nộ Và Ân Sủng Của Đức Chúa Trời Anh chị em sẽ nói với tôi: Tại sao Ngài còn quở trách? Vì ai có thể chống lại ý Ngài? Hỡi người, ngươi là ai mà dám đối đáp nghịch với Đức Chúa Trời? Có thể nào vật được nắn lên nói với người nắn nên nó: Tại sao ông nắn tôi nên như thế này? Hay người thợ gốm không có quyền từ cùng một đống đất sét mà nắn nên bình này dùng cho việc sang, bình kia dùng cho việc hèn sao? Nhưng nếu Đức Chúa Trời, Đấng muốn tỏ ra thịnh nộ và làm cho người ta biết quyền năng của Ngài, đã kiên nhẫn chịu đựng rất nhiều những bình đáng giận chỉ hợp cho sự hủy diệt. Và để cho biết sự giàu có vinh quang Ngài trên những bình được thương xót mà Ngài đã chuẩn bị sẵn để được vinh quang, tức là chúng ta, những người được kêu gọi không phải chỉ từ trong người Do Thái mà từ các dân tộc khác nữa. Như Ngài có phán trong Ô-sê: “Ta sẽ gọi kẻ không phải dân Ta là dân Ta, Kẻ chẳng được yêu dấu là yêu dấu, Chính tại nơi Ta đã nói với họ: Các ngươi không phải là dân Ta, Thì họ lại được gọi là con của Đức Chúa Trời hằng sống.”9:26 Ôsê 1:10; 2:23 I-sa đã kêu lên về dân Y-sơ-ra-ên: “Dù số dân Y-sơ-ra-ên đông như cát của biển Thì cũng chỉ một số dân sót lại sẽ được cứu mà thôi. Chúa sẽ chắc chắn Và nhanh chóng làm thành lời Ngài trên đất.”9:28 Isa 10:22-23 I-sa cũng đã nói trước: “Nếu Chúa Vạn Quân Không chừa lại những người nối dõi cho chúng ta Thì chúng ta đã trở thành như Sô-đôm Và giống như Gô-mô-rơ rồi.”9:29 Isa 1:9 Dân Y-sơ-ra-ên Và Phúc Âm Vậy chúng ta sẽ nói thế nào? Các dân ngoại quốc không tìm kiếm sự công chính thì lại đã được sự công chính, nhưng là sự công chính do đức tin; còn dân Y-sơ-ra-ên tìm kiếm Kinh Luật của sự công chính thì lại không đạt được. Tại sao? Tại vì họ tìm kiếm không nhờ đức tin mà nhờ việc làm; họ đã vấp phải hòn đá cản, như Kinh Thánh chép: “Này Ta để tại Si-ôn một hòn đá cản, Tức là tảng đá làm vấp ngã, Và ai tin Ngài sẽ không bị hổ thẹn.” Hỡi anh chị em, lòng tôi ao ước và cầu xin Đức Chúa Trời cho họ được sự cứu rỗi. Vì tôi làm chứng cho họ rằng họ có lòng sốt sắng về Đức Chúa Trời, nhưng không theo sự hiểu biết. Vì không nhận biết sự công chính của Đức Chúa Trời, họ tìm cách thiết lập sự công chính riêng, họ không thuận theo sự công chính của Đức Chúa Trời. Vì Chúa Cứu Thế là sự hoàn tất10:4 Ctd: là cuối cùng của Kinh Luật của Kinh Luật để ban sự công chính cho mọi người tin. Sự Cứu Rỗi Cho Mọi Người Môi-se có viết về sự công chính nhờ Kinh Luật rằng: Người nào làm những điều này thì sẽ nhờ nó mà sống. Nhưng sự công chính bởi đức tin thì nói thế này: Đừng nói trong lòng ngươi rằng: Ai sẽ lên trời? Ngụ ý để đem Chúa Cứu Thế xuống; Hay là ai sẽ xuống vực sâu? Ngụ ý để đem Chúa Cứu Thế từ cõi chết lên. Nhưng nói gì? “Nói đạo ở gần ngươi, trong miệng ngươi và trong lòng ngươi;”10:8 Phục 9:4; 30:12-14 đây là đạo đức tin mà chúng tôi truyền giảng. Vì nếu miệng ngươi xưng nhận Đức Giê-su là Chúa và lòng ngươi tin rằng Đức Chúa Trời đã khiến Ngài từ chết sống lại thì ngươi sẽ được cứu; Vì tin trong lòng thì được sự công chính, và xưng nhận nơi miệng thì được sự cứu rỗi. Kinh Thánh nói rằng: Bất cứ ai tin Ngài sẽ không bị hổ thẹn. Không có sự phân biệt giữa người Do Thái và người Hy Lạp. Vì Ngài là Chúa của tất cả, ban ơn dồi dào cho mọi người kêu cầu Ngài. Tất cả người nào kêu cầu danh Chúa đều được cứu. Nhưng làm sao họ có thể kêu cầu cùng Đấng họ chưa tin? Làm sao họ có thể tin Đấng họ chưa nghe? Làm sao họ có thể nghe khi không có người truyền giảng? Làm sao họ có thể truyền giảng nếu họ không được sai đi? Như Kinh Thánh có chép: “Bàn chân của người truyền giảng Phúc Âm xinh đẹp biết bao!”10:15 Isa 52:7 Nhưng không phải tất cả mọi người đều vâng theo Phúc Âm. Vì I-sa có nói: “Lạy Chúa! Ai chịu tin lời rao truyền của chúng con?”10:16 Isa 53:1 Vậy, có đức tin là do nghe, và nghe là khi Lời Chúa Cứu Thế được truyền giảng. Nhưng tôi xin hỏi: Họ chưa nghe sao? Không, họ đã nghe rồi, như Kinh Thánh có nói: “Tiếng chúng vang ra khắp đất Và lời chúng vang đến tận cùng trần gian.”10:18 Thi 19:4 Tôi lại hỏi: Người Y-sơ-ra-ên chưa biết sao? Trước hết Môi-se có nói: “Ta sẽ làm các ngươi ghen với một dân không phải là dân, Ta sẽ làm ngươi tức giận một dân ngu dốt.”10:19 Phục 32:21 I-sa đã mạnh dạn nói rằng: “Những kẻ không tìm kiếm Ta thì Ta cho gặp, Ta tỏ mình ra cho những kẻ chẳng cầu hỏi Ta.”10:20 Isa 65:1 Nhưng về dân Y-sơ-ra-ên thì ông nói: “Suốt cả ngày Ta giang tay Hướng về một dân bất tuân và chống nghịch.”10:21 Isa 65:2 Dân Y-sơ-ra-ên Có Bị Đức Chúa Trời Từ Bỏ Không? Vậy, tôi xin hỏi: “Đức Chúa Trời có loại bỏ dân Ngài không? Không bao giờ! Vì chính tôi là người Y-sơ-ra-ên, dòng dõi Áp-ra-ham, thuộc bộ tộc Bên-gia-min. Đức Chúa Trời không bỏ dân tộc Ngài biết trước. Anh em không biết Kinh Thánh nói gì về Ê-li khi ông thưa kiện dân Y-sơ-ra-ên trước mặt Đức Chúa Trời sao?” Lạy Chúa: “Họ đã sát hại các tiên tri Chúa, đào phá bàn thờ Ngài; chỉ còn lại một mình tôi mà họ cũng tìm giết luôn.”11:3 1Vua 19:10, 14 Nhưng Đức Chúa Trời đáp lời thế nào? “Ta đã dành riêng cho Ta bảy ngàn người nam chẳng chịu quỳ lạy Ba-anh.”11:4 1Vua 19:18 Ngày nay cũng thế, có thành phần sót lại được lựa chọn theo ân sủng. Nếu đã theo ân sủng thì không theo công đức nữa, bằng không thì ân chẳng còn là ân. Điều này có nghĩa gì? Dân Y-sơ-ra-ên chẳng tìm được điều họ tìm; những người được chọn thì tìm được, phần còn lại, thì lòng chai đá, như Kinh Thánh đã chép: “Đức Chúa Trời đã khiến tâm trí họ u mê, Mắt không thấy, Tai không nghe Cho đến ngày nay.”11:8 Phục 29:4. Isa 29:10 Đa-vít cũng nói: “Cầu cho bàn tiệc họ trở thành cạm bẫy, Lưới bủa, đá vấp chân và dịp báo trả cho họ. Cầu cho mắt họ mờ không thấy được Và lưng họ cứ khòm luôn!”11:10 Thi 69:22-23 Tôi lại hỏi: “Có phải họ đã bị sẩy chân để rồi ngã nhào xuống không? Không bao giờ! Do họ vấp chân mà sự cứu rỗi đến với các dân tộc ngoại quốc, để làm họ ganh đua. Nhưng nếu sự vấp chân của họ làm giàu cho thế gian và sự thất bại của họ làm cho các dân tộc ngoại quốc phong phú, một khi họ được đông đủ thì sự phong phú càng vĩ đại đến chừng nào?” Tôi nói với anh chị em là người ngoại quốc: “Bấy lâu nay làm sứ đồ cho các dân tộc ngoại quốc, tôi làm vẻ vang cho chức vụ mình. Nếu tôi kích thích lòng ganh đua của đồng bào tôi, chỉ là để cứu rỗi một số người trong vòng họ. Vì nếu khi họ bị vứt bỏ mà cả thế gian được phục hòa với Đức Chúa Trời thì khi họ được Ngài tiếp nhận sẽ là việc cải tử hoàn sinh. Nếu lúa đầu mùa đã thánh thì cả đống bột cũng thánh; nếu cái rễ đã thánh thì các cành cũng thánh. Nếu vài cành bị bỏ và ngươi vốn thuộc cây ô-liu hoang lại được ghép vào giữa các cành ấy và được chia sẻ nhựa sống từ rễ cây ô-liu, thì chớ khoa trương nghịch các cành ấy. Nếu ngươi khoa trương thì hãy nhớ rằng không phải ngươi cưu mang cái rễ mà cái rễ cưu mang ngươi. Ngươi sẽ nói: ‘Các cành kia bị bẻ đi để ta được ghép vào!’ Đúng lắm, các cành kia bị bẻ đi vì tội vô tín, còn ngươi bởi đức tin mà tồn tại; đừng kiêu căng hợm hĩnh, nhưng hãy kính sợ! Vì Đức Chúa Trời chẳng dung tha các cành tự nhiên thì Ngài cũng sẽ không dung tha ngươi. Vậy hãy gẫm xem lòng nhân từ và nghiêm minh của Đức Chúa Trời, nghiêm minh đối với những người đã ngã, Đức Chúa Trời nhân từ với ngươi nếu ngươi kiên trì trong lòng nhân từ Ngài; bằng không ngươi cũng sẽ bị cắt bỏ. Còn đối với họ, nếu họ không kiên trì trong sự vô tín, họ sẽ lại được tháp vào; vì Đức Chúa Trời có quyền tháp họ lại. Nếu ngươi đã được cắt ra từ bản chất cây ô-liu hoang và đem ghép vào cây ô-liu tốt, trái với bản chất tự nhiên, thì các cành tự nhiên này lại càng đáng được ghép vào chính cây ô-liu của chúng. Dân Y-sơ-ra-ên Sẽ Được Cứu Chuộc Thưa anh chị em, tôi không muốn anh chị em chẳng biết huyền nhiệm này để anh chị em không tự cho mình là khôn ngoan: Một phần Y-sơ-ra-ên cứ ngoan cố cho đến khi số người các dân tộc ngoại quốc gia nhập đầy đủ. Vậy cả Y-sơ-ra-ên sẽ được cứu, như Kinh Thánh đã chép: ‘Đấng Cứu Tinh sẽ ra từ Si-ôn Dẹp bỏ sự vô đạo khỏi nhà Gia-cốp Và đây là giao ước Ta lập với họ Khi Ta xóa sạch tội lỗi họ rồi.’11:27 Isa 27:9 Một mặt, theo Phúc Âm thì họ là thù địch vì cớ anh chị em. Mặt khác theo ơn lựa chọn thì họ là người thân yêu vì cớ các tổ phụ. Vì tặng phẩm Chúa ban và tiếng Chúa gọi không bao giờ hủy bỏ được. Như anh chị em ngày trước không vâng phục Đức Chúa Trời, nhưng hiện nay đã được thương xót vì họ không vâng phục, thì họ cũng thế, dù hiện nay không vâng phục, nhưng do lòng thương xót của Chúa đối với anh chị em, thì bây giờ họ cũng có thể được Ngài thương xót. Vì Đức Chúa Trời đã ràng buộc mọi người trong sự bất phục để tỏ lòng thương xót tất cả. Ôi, sự giàu có, khôn ngoan và hiểu biết của Đức Chúa Trời thật sâu thẳm! Sự phán xét của Ngài không ai thấu triệt, Đường lối Ngài không ai dò tìm nổi. Vì ai biết tâm trí Chúa? Ai làm cố vấn cho Ngài? Có ai từng dâng hiến Để được Ngài đền đáp? Vì mọi sự đều từ Chúa, bởi Chúa và hướng về Chúa. Vinh quang quy về Ngài đời đời vô cùng! A-men.” Thờ Phượng Chúa Thưa anh chị em, vì thế tôi nài xin anh chị em, do lòng thương xót của Đức Chúa Trời, hãy dâng hiến thân thể mình như sinh tế sống, thánh khiết, đẹp lòng Đức Chúa Trời, đó là sự thờ phượng hợp lẽ của anh chị em. Đừng rập khuôn theo đời này, nhưng hãy được biến hóa bởi sự đổi mới tâm trí, để thử nghiệm cho biết ý định tốt lành, trọn vẹn và đẹp lòng Đức Chúa Trời. Vì nhờ ân sủng Chúa ban cho tôi, tôi xin nói với mỗi người trong anh chị em: Đừng nghĩ về mình cao quá, nhưng hãy bình tâm suy nghĩ, đúng theo lượng đức tin Đức Chúa Trời đã ban phát cho mình. Vì như trong một thân thể, ta có nhiều phần, nhưng tất cả các phần không có cùng một chức năng, cũng thế, dù chúng ta đông người, nhưng chỉ có một thân thể trong Chúa Cứu Thế và mỗi người là các phần của nhau. Ta được ân tứ khác nhau theo ân sủng Chúa; ai được ân nói tiên tri, hãy nói theo lượng đức tin; ai phục vụ, hãy tận tâm phục vụ; ai dạy dỗ hãy chăm mà dạy dỗ; ai được ân khích lệ, hãy khích lệ anh chị em; ai được ân ban phát hãy rộng rãi ban phát; ai được ân lãnh đạo, hãy chuyên cần lãnh đạo; ai làm việc từ thiện, hãy hăng hái mà làm. Tình yêu thương phải chân thành. Hãy ghê tởm điều dữ, gắn bó với điều lành. Hãy lấy tình huynh đệ mà thương yêu nhau cách mặn nồng. Hãy kính nhường nhau với lòng tôn kính, Hãy nhiệt thành, chớ rụt rè. Phải có lòng sốt sắng, phải phục vụ Chúa. Hãy vui mừng trong niềm hy vọng; kiên trì trong cơn hoạn nạn, kiên tâm cầu nguyện, Hãy dự phần cung cấp các nhu cầu cho các thánh đồ, chuyên cần tiếp khách. Hãy chúc phước cho kẻ bắt bớ anh chị em, hãy chúc phước, đừng nguyền rủa. Hãy vui với những người vui, khóc với những người khóc. Hãy sống hòa thuận với nhau. Đừng lo nghĩ những chuyện cao xa, nhưng hãy tự hạ, hòa mình với những người hèn mọn. Đừng tự cho mình là khôn ngoan. Đừng lấy ác báo ác cho ai cả; hãy làm điều thiện trước mặt mọi người. Nếu có thể được, anh em hãy hết sức sống hòa thuận với mọi người. Anh chị em thân yêu, đừng tự báo thù ai, nhưng hãy nhường chỗ cho cơn thịnh nộ của Chúa, vì Kinh Thánh đã chép: “Sự báo trả thuộc về Ta; Ta sẽ báo ứng! Chúa phán vậy.” Nhưng nếu kẻ thù anh chị em đói, hãy cho ăn, Có khát hãy cho uống Vì làm như vậy là anh chị em chất than hồng trên đầu nó. Đừng để điều ác thắng mình nhưng hãy lấy điều thiện thắng điều ác. Đối Với Chính Quyền Mỗi người phải tùng phục các nhà cầm quyền trên mình, vì không có thẩm quyền nào không do Đức Chúa Trời đặt ra, và các nhà cầm quyền hiện có đều do Ngài thiết lập. Cho nên ai chống lại thẩm quyền là chống lại mệnh lệnh Đức Chúa Trời; những người chống nghịch ấy sẽ rước lấy hình phạt cho mình. Vì những người cai trị không phải để cho người làm lành sợ mà cho người ác khiếp sợ. Muốn khỏi sợ nhà cầm quyền, ngươi hãy làm điều lành thì sẽ được họ khen ngợi. Vì nhà cầm quyền là đầy tớ của Đức Chúa Trời để giúp ích cho ngươi. Nếu ngươi làm dữ thì hãy sợ hãi vì họ cầm gươm không phải là vô ích; họ là đầy tớ của Đức Chúa Trời, kẻ thừa hành để giáng cơn thịnh nộ xuống kẻ làm ác. Vậy, phải thuận phục nhà cầm quyền, không phải chỉ vì sợ cơn thịnh nộ nhưng cũng vì lương tâm nữa. Đây cũng là lý do anh chị em hãy nộp thuế, vì nhà cầm quyền là tôi tớ Đức Chúa Trời lo thi hành phận sự đó. Hãy trả lại cho mọi người món nợ mình đã mắc, nộp thuế cho người mình phải nộp, đóng thuế thu nhập cho người mình phải đóng, sợ kẻ mình đáng sợ, kính kẻ mình đáng kính. Đừng mắc nợ ai gì cả ngoại trừ món nợ yêu thương nhau, vì ai yêu thương người lân cận là làm trọn Kinh Luật. Vì các điều răn: “Ngươi chớ ngoại tình”, “ngươi chớ giết người”, “ngươi chớ trộm cắp”, “ngươi chớ tham lam”, và bất cứ điều răn nào khác cũng đều tóm lược trong một câu này: “Ngươi hãy yêu thương người lân cận như mình.” Tình yêu thương không làm hại người lân cận, cho nên yêu thương là làm trọn Kinh Luật. Hãy làm điều ấy vì biết rõ thời thế: Đã đến giờ anh chị em từ ngủ thức dậy vì bây giờ sự cứu rỗi gần chúng ta hơn lúc chúng ta mới tin Chúa. Đêm đã khuya, ngày gần rạng. Vậy ta hãy vứt bỏ những công việc đen tối, mặc lấy áo giáp sáng láng. Ta hãy sống đúng đắn như bước đi giữa ban ngày. Đừng truy hoan, say sưa, đồi bại, vô độ, xung đột và ganh ghét, nhưng anh chị em hãy mặc lấy Chúa Cứu Thế Giê-su; đừng nghĩ đến cách làm thỏa mãn các dục vọng của xác thịt. Đối Với Anh Chị Em Tín Hữu Hãy tiếp nhận người yếu đức tin, đừng lên án những vấn đề không biết chắc: Người này tin có thể ăn mọi thức ăn, nhưng người kia yếu đuối chỉ ăn rau. Người ăn đừng khinh bỉ kẻ không ăn và người không ăn chớ lên án kẻ ăn vì Đức Chúa Trời đã tiếp nhận người ấy. Ngươi là ai mà lên án đầy tớ của người khác? Nó đứng vững hay ngã xuống, đó là việc của chủ nó; nhưng nó sẽ đứng vững vì Chúa có quyền cho nó đứng vững vàng. Người này coi ngày này trọng hơn ngày kia, kẻ khác coi ngày nào cũng như nhau. Mỗi người hãy tin quyết trong trí mình. Người giữ ngày là giữ vì Chúa; kẻ ăn là ăn vì Chúa, vì người ấy tạ ơn Đức Chúa Trời. Người không ăn cũng kiêng cữ vì Chúa và cũng tạ ơn Đức Chúa Trời. Vì không một ai trong chúng ta sống cho chính mình hoặc chết cho chính mình, vì nếu chúng ta sống là sống cho Chúa; và nếu chúng ta chết là chết cho Chúa. Như thế, dù sống hay chết, chúng ta đều thuộc về Chúa cả. Chính vì đó mà Chúa Cứu Thế chịu chết và sống lại ngõ hầu làm Chúa kẻ chết và kẻ sống. Còn ngươi, tại sao lên án anh chị em mình? Sao ngươi khinh bỉ anh chị em mình? Vì tất cả chúng ta đều sẽ ứng hầu trước tòa án của Đức Chúa Trời. Vì Kinh Thánh đã chép: “Chúa phán: Thật như Ta hằng sống, Mọi đầu gối sẽ quỳ trước mặt Ta Và mọi lưỡi sẽ tuyên xưng Đức Chúa Trời.” Như thế, mỗi người trong chúng ta phải tường trình công việc mình cho Đức Chúa Trời. Đừng Ngăn Trở Nhau Vậy nên chúng ta đừng lên án lẫn nhau nữa, nhưng quyết định không làm trở ngại hay gây cớ vấp ngã cho anh chị em mình. Tôi biết và tin quyết trong Chúa Giê-su rằng: Chẳng có một vật gì tự nó là ô uế, trừ khi có ai kể nó là ô uế thì nó mới là ô uế cho kẻ đó. Vì nếu anh chị em ngươi buồn phiền vì món ăn của ngươi thì ngươi đâu còn sống theo tình yêu thương nữa! Đừng vì một món ăn mà làm cho người khác bị hư mất; vì người đó đã được Chúa chết thay. Đừng để việc tốt mình làm bị mang tiếng xấu. Vì Nước Đức Chúa Trời không phải là vấn đề ăn uống nhưng là sự công chính, bình an và vui mừng trong Thánh Linh. Vì người nào phục vụ Chúa Cứu Thế cách này thì được Đức Chúa Trời hài lòng và loài người chấp nhận. Vậy, ta hãy đeo đuổi những việc đem lại hòa thuận và xây dựng nhau. Đừng vì món ăn mà hủy hoại công việc của Đức Chúa Trời. Mọi vật thật ra đều trong sạch, nhưng người nào gây vấp phạm cho kẻ khác vì món ăn là sai quấy rồi. Tốt hơn là đừng ăn thịt, uống rượu hoặc làm điều gì gây cho anh chị em mình vấp phạm. Người tin điều gì, đó là việc giữa người và Đức Chúa Trời. Phước cho ai không lên án chính mình vì điều mình chấp nhận. Nhưng nếu anh còn nghi ngờ mà vẫn ăn là bị lên án rồi vì không hành động bởi đức tin. Phàm làm việc gì không bởi đức tin là phạm tội. Chúng ta là người mạnh phải gánh vác những khiếm khuyết của người yếu; chớ nên chỉ làm hài lòng mình. Mỗi người trong chúng ta hãy làm hài lòng người lân cận để giúp ích và xây dựng họ. Vì chính Chúa Cứu Thế cũng không làm cho đẹp lòng mình, như lời Kinh Thánh chép: “Lời sỉ vả của những kẻ phỉ báng Chúa đã đổ trên tôi.” Tất cả những điều được ghi từ xưa đều nhằm giáo huấn chúng ta, ngõ hầu nhờ lòng kiên nhẫn và sự an ủi của Kinh Thánh mà chúng ta có niềm hy vọng. Cầu xin Đức Chúa Trời là nguồn kiên nhẫn và an ủi làm cho anh chị em được đồng tâm nhất trí với nhau theo gương Chúa Cứu Thế Giê-su ngõ hầu anh chị em có thể đồng lòng, cùng một miệng tôn vinh Đức Chúa Trời là Cha của Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta. Vậy, anh chị em hãy tiếp nhận nhau như Chúa Cứu Thế đã tiếp nhận chúng ta để đem vinh quang cho Đức Chúa Trời. Tôi nói Chúa Cứu Thế đã vì chân lý phục vụ những kẻ chịu cắt bì để xác nhận lời hứa với các tổ phụ, ngõ hầu các dân tộc ngoại quốc cũng tôn vinh Đức Chúa Trời vì lòng thương xót của Ngài. Như Kinh Thánh đã chép: “Bởi thế, Con sẽ tuyên xưng Chúa giữa các dân tộc, Con sẽ hát ca ngợi Danh Chúa.”15:9 Thi 18:49 Kinh Thánh cũng chép: “Hỡi các dân tộc, hãy cùng hân hoan với dân Chúa.”15:10 Phục 32:43 Kinh Thánh lại viết: “Hỡi tất cả các nước, hãy ca tụng Chúa. Mọi dân tộc hãy ca ngợi Ngài.”15:11 Thi 117:1 I-sa lại nói: “Sẽ có Cái Rễ ra từ Gie-sê, Là Đấng đứng lên thống trị các nước Các dân sẽ hy vọng nơi Ngài.”15:12 Isa 11:10 Cầu xin Đức Chúa Trời là nguồn hy vọng ban cho anh chị em đầy dẫy mọi sự vui mừng và bình an khi anh chị em tin cậy Ngài, đến nỗi anh chị em đầy tràn niềm hy vọng bởi quyền năng Thánh Linh! Thưa anh chị em, chính tôi tin chắc rằng anh chị em vốn là những người đầy thiện tâm, lại giàu trí thức, cũng có khả năng khuyên bảo nhau. Sở dĩ có vài điều tôi nói mạnh với anh chị em là để nhắc nhở anh chị em vì Đức Chúa Trời đã ban ơn, lập tôi làm đầy tớ Chúa Cứu Thế Giê-su nhằm phục vụ các dân tộc ngoại quốc, làm thầy tế lễ cho Phúc Âm Đức Chúa Trời, ngõ hầu họ trở thành lễ vật đẹp lòng Chúa và được Thánh Linh thánh hóa. Vậy, tôi có lý do tự hào trong Chúa Cứu Thế Giê-su về sự hầu việc Đức Chúa Trời. Vì tôi không dám nói điều gì ngoài những việc Chúa Cứu Thế dùng tôi thực hiện, trong lời nói và trong việc làm, khiến các dân tộc ngoại quốc vâng phục Chúa. Qua những dấu lạ và phép mầu đầy uy lực, bởi quyền năng Thánh Linh, đến nỗi tôi làm trọn việc truyền bá Phúc Âm của Chúa Cứu Thế khắp mọi nơi, từ Giê-ru-sa-lem và miền phụ cận đến tận xứ Y-ly-ri. Tôi cố gắng truyền bá Phúc Âm nơi nào Danh Chúa Cứu Thế chưa được công bố, để tôi khỏi xây cất trên nền người khác. Nhưng như Kinh Thánh đã chép: “Những kẻ chưa được loan báo về Ngài thì sẽ thấy Ngài, Những kẻ chưa nghe về Ngài sẽ được hiểu biết.”15:21 Isa 52:15 Đó là điều đã nhiều lần ngăn trở tôi đến thăm anh chị em, nhưng bây giờ chẳng có gì ràng buộc tôi trong các miền này nữa. Đã nhiều năm tôi ước mong đến thăm anh chị em. Khi nào đi Tây-ban-nha, tôi mong trên đường đi sẽ ghé thăm anh chị em; sau khi được thỏa lòng ở với anh chị em một ít lâu, tôi sẽ nhờ anh chị em giúp tôi đi qua đó. Nhưng bây giờ, tôi đang đi Giê-ru-sa-lem để phục vụ các thánh đồ. Vì người Ma-xê-đoan và A-chai có nhã ý quyên góp để giúp các người nghèo túng trong vòng các thánh đồ tại Giê-ru-sa-lem. Họ có nhã ý này vì thật ra họ cũng mắc nợ các thánh đồ ấy, vì các thánh đồ đã chia sẻ các phúc lành thiêng liêng cho các dân tộc ngoại quốc thì các dân tộc này cũng phải cung cấp cho các thánh đồ ấy của cải vật chất. Khi chu toàn nhiệm vụ tức là trao xong tặng phẩm này cho họ tận tay, tôi sẽ ra đi, ghé anh chị em rồi qua Tây-ban-nha. Tôi biết rằng khi đến tôi sẽ đem theo phúc lành dồi dào của Chúa Cứu Thế. Thưa anh chị em, nhân danh Chúa Cứu Thế Giê-su, Chúa chúng ta và do lòng yêu thương trong Thánh Linh, tôi nài xin anh chị em hãy cùng tôi chiến đấu trong sự cầu nguyện cho tôi trước mặt Đức Chúa Trời, để tôi được giải thoát khỏi những kẻ vô tín ở Giu-đê và để chức vụ của tôi ở Giê-ru-sa-lem được các thánh đồ chấp nhận, ngõ hầu tôi được hân hoan khi đến thăm anh chị em và đẹp ý Chúa, cũng được tĩnh dưỡng với anh chị em. Nguyện xin Đức Chúa Trời bình an ở với tất cả anh chị em! A-men! Lời Gửi Gắm Và Chào Thăm Tôi gửi gắm chị Phê-bê của chúng tôi cho anh chị em; chị là nữ chấp sự của Hội Thánh tại Sơn-cơ-rê. Xin anh chị em đón tiếp chị cách xứng đáng trong Chúa như tiếp đón các thánh đồ. Xin giúp đỡ chị khi chị có điều gì cần anh chị em giúp đỡ, vì chị cũng đã giúp đỡ nhiều người, kể cả tôi nữa. Xin kính chào Bê-rít-sin và A-qui-la, hai bạn đồng lao của tôi trong Chúa Cứu Thế Giê-su. Họ đã liều chết cứu mạng sống tôi, không phải chỉ có tôi cảm tạ họ mà tất cả các Hội Thánh của các dân tộc ngoại quốc cũng ghi ơn họ nữa. Xin kính chào Hội Thánh họp tại nhà họ. Kính chào Ê-bai-nết, người thân yêu của tôi, cũng là trái đầu mùa cho Chúa Cứu Thế trong vùng Tiểu Á. Kính chào bà Ma-ri, là người có công khó phục vụ anh chị em. Kính chào An-trô-ni-cơ và Giu-nia, là bà con và bạn đồng tù với tôi, cũng là những người lỗi lạc giữa vòng các sứ đồ. Họ đã tin Chúa Cứu Thế trước tôi. Kính chào Am-li-a, người thân yêu của tôi trong Chúa. Kính chào U-rơ-ban, bạn đồng lao của tôi trong Chúa Cứu Thế và Ích-ta-chi, người thân yêu của tôi. Kính chào A-be-lô, người được Chúa Cứu Thế chấp nhận. Kính chào những người thuộc gia đình A-rích-tô-bu. Kính chào Hê-rô-đi-ôn là họ hàng tôi. Hãy chào gia đình Nát-xít là những người trong Chúa. Kính chào Try-phe-nơ và Try-phô-sơ là hai người làm việc trong Chúa. Kính chào chị Bẹt-si-đơ bạn thân của tôi, người gánh vác nhiều việc trong Chúa. Kính chào Ru-hu, người được Chúa chọn và thân mẫu của anh cũng là thân mẫu tôi. Kính chào A-sin-cơ-rich, Phơ-lê-gôn, Hẹt-me, Pha-trô-ba, Hẹt-ma và các anh chị em ở với họ. Kính chào Phi-lô, Giu-lý, hai chị em Nê-rê, Ô-lim-phi và tất cả các thánh đồ ở với họ. Hãy chào thăm nhau trong tình thân ái.16:16 Nt: hãy chào thăm nhau bằng cái hôn thánh Tất cả các Hội Thánh của Chúa Cứu Thế đều gửi lời chào anh chị em. Thưa anh chị em, tôi khuyên anh chị em đề phòng những kẻ gây chia rẽ và gây vấp phạm, trái với giáo huấn mà anh chị em đã học; hãy lánh xa họ đi! Vì những kẻ đó chẳng phục vụ Chúa Cứu Thế, Chúa chúng ta đâu, song phục vụ cái bụng họ và dùng những lời đường mật nịnh bợ để quyến rũ lòng người thật thà. Mọi người đều rõ tinh thần vâng phục của anh chị em, vì thế tôi mừng cho anh chị em, mong anh chị em khôn ngoan về điều lành và tinh khiết về điều ác. Đức Chúa Trời bình an sẽ sớm chà đạp quỷ Sa-tan dưới chân anh chị em. Nguyện xin ân sủng của Đức Giê-su, Chúa chúng ta, ở cùng anh chị em! Ti-mô-thê, bạn đồng lao của tôi, kính chào anh chị em. Lu-xi-út, Gia-sôn, Sô-si-pha-tê là bà con tôi kính chào anh chị em. Tôi là Tẹt-tiu, người chép thư này, kính chào anh chị em trong Chúa. Gai-út, người tiếp đãi tôi và cả Hội Thánh, kính chào anh chị em. Ê-rát, trưởng ngân khố của thành phố này và anh em chúng ta là Qua-rơ-tu, kính chào anh chị em. Lời Tạ Ơn Vinh quang đời đời đều quy về Đấng có khả năng củng cố anh chị em theo Phúc Âm của tôi và sự truyền giảng Chúa Cứu Thế Giê-su cùng theo huyền nhiệm đã giấu kín từ mọi đời trước, mà nay được khải thị qua các Kinh Tiên Tri, theo lệnh của Đức Chúa Trời hằng sống, nhằm giúp tất cả các dân tộc hiểu biết và đưa họ đến niềm tin vâng phục. Ngài là Đức Chúa Trời khôn ngoan duy nhất, được tôn vinh qua Chúa Cứu Thế Giê-su đến đời đời. A-men.